Khác biệt giữa sữa mẹ và sữa bò
Nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ giúp trẻ tăng trưởng, phát triển hài hòa và phòng chống suy dinh dưỡng. Sữa mẹ là nguồn dinh dưỡng hoàn hảo, dễ tiêu hóa, hấp thu đối với trẻ. Sữa mẹ có số lượng protein (đạm) ít hơn sữa động vật vì vậy rất phù hợp với chức năng đào thải khi thận của trẻ chưa trưởng thành.
Bên cạnh đó protein trong sữa mẹ chủ yếu là protein dạng lỏng hòa tan, còn gọi là protein sữa (Whey protein) nên phù hợp với khả năng tiêu hóa và hấp thu của trẻ; còn protein trong sữa bò chủ yếu là casein (85%) nên khi vào dạ dày của trẻ nhỏ sẽ tạo thành các cục đông vón làm trẻ khó tiêu hóa và hấp thu, trẻ hay bị rối loạn tiêu hóa.
Whey protein chứa các protein kháng khuẩn giúp trẻ có khả năng chống lại các bệnh nhiễm khuẩn. Lipid (chất béo) trong sữa mẹ chiếm 50% năng lượng, thành phần acid béo không no nhiều hơn acid béo no. Sữa mẹ có đủ các acid béo cần thiết, giúp cho quá trình hoàn thiện não bộ, võng mạc và làm vững bền mạch máu, như: acid béo không no một nối đôi(acid oleic), acid béo không no đa nối đôi (acid α-linoleic, acid linoleic), tiền tố của DHA (Decosahexaenoic acid) và ARA (arachidonic acid).
Trong sữa động vật không có các acid béo này. Carbonhydrat (glucid và đường) trong sữa mẹ nhiều hơn sữa bò, cung cấp năng lượng, 85% là lactose tăng cường hấp thu calci và 15% là oligosaccharid hỗ trợ cho sự phát triển vi khuẩn có lợi cho trẻ.
Sữa mẹ có đủ các vitamin (A, B1, B2, C …), khoáng chất (Calci, phospho …) và các nguyên tố vi lượng (sắt, kẽm, đồng, selen …) đáp ứng đủ nhu cầu trẻ nhỏ, giúp trẻ phòng chống thiếu vi chất và bảo vệ cơ thể chống quá trình oxy hóa.Bảo vệ trẻ chống nhiễm khuẩn.
Sữa mẹ chứa các tế bào bạch cầu (lympho bào, đại thực bào), globulin miễn dịch (IgA, IgG, IgM), một số yếu tố kích thích sự phát triển của vi khuẩn Lactobacillus Bifidus (Lactose, Oligosaccharid, yếu tố Bifidus), giúp trẻ chống lại các bệnh nhiễm khuẩn như tiêu chảy, nhiễm khuẩn hô hấp, viêm tai, viêm màng não và nhiễm khuẩn tiết niệu. Sữa mẹ cũng chứa những kháng thể chống các bệnh nhiễm khuẩn mà bà mẹ đã từng mắc bệnh.
Khi bà mẹ bị nhiễm khuẩn, các tế bào bạch cầu hoạt động và sản xuất kháng thể để bảo vệ người mẹ, một số tế bào bạch cầu đi tới vú và sản xuất kháng thể tại đó, các kháng thể này được tiết vào sữa để bảo vệ trẻ chống nhiễm khuẩn. Vì vậy khi mẹ bị bệnh nhiễm khuẩn thì vẫn có thể cho con bú, không nên cách ly mẹ và con.
Theo số liệu của Tổ chức Y tế Thế giới (2002), nhiều nghiên cứu ở các nước phát triển đã chứng minh tỷ lệ mắc tiêu chảy, hô hấp, viêm tai giữa và dị ứng... ở trẻ được bú mẹ hoàn toàn trong 7 tháng đầu thấp hơn trẻ nuôi hỗn hợp. Kết quả nghiên cứu điều tra ban đầu của dự án Alive & Thrive tiến hành năm 2010 tại 15 tỉnh ở Việt Nam cũng chỉ ra rằng: Trẻ được bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu ít bị tiêu chảy hơn (5,7%) so với trẻ có bú mẹ và ăn thêm các loại thức ăn, đồ uống khác.
Sữa mẹ giúp trẻ sơ sinh phát triển tốt nhất
Nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM) giúp cải thiện tâm lý cho bà mẹ và trẻ. Bà mẹ thường xuyên tiếp xúc, gần gũi con sẽ giúp gắn bó tình cảm mẹ và con, bà mẹ cảm thấy thoải mái tinh thần, yên tâm và giảm được sự lo âu, trầm cảm sau sinh. Việc nuôi con bằng sữa mẹ cũng khiến trẻ được tiếp xúc gần gũi mẹ, được âu yếm sẽ ít khóc hơn, cảm giác an toàn hơn, tinh thần, trí tuệ trẻ phát triển tốt hơn.
Nuôi con bằng sữa mẹ giúp người mẹ giảm nguy cơ băng huyết, thiếu máu sau sinh; Giảm nguy cơ ung thư vú, buồng trứng; Chậm có thai trở lại (đặc biệt là giai đoạn NCBSM hoàn toàn trong 6 tháng đầu sẽ đạt hiệu quả cao trong việc tránh thai an toàn); Hồi phục nhanh cân nặng, vóc dáng ban đầu.
NCBSM chi phí ít hơn so với nuôi nhân tạo, tiết kiệm được kinh tế cho gia đình, cộng đồng và ngân sách quốc gia.
Sữa mẹ bảo vệ trẻ không tăng cân quá mức (thừa cân, béo phì) nhất là trong hai năm đầu đời và giảm nguy cơ mắc các bệnh mạn tính khi trưởng thành (tiểu đường, tim mạch, huyết áp …). Do sữa mẹ có các hormone Leptin, Ghrelin, IGF-1 (Insulin Growth Factor 1) tham gia điều chỉnh ăn uống và cân bằng năng lượng.
Đặc điểm diễn biến của sữa mẹ
Sự khác nhau giữa sữa non và sữa trưởng thành: Sữa non được hình thành từ tuần thứ 14 - 16 của thai kỳ và được tiết ra trong 1 - 3 ngày đầu sau đẻ, có màu vàng nhạt hoặc trong, sánh đặc. Sau 3-5 ngày, sữa non chuyển thành sữa trưởng thành. Sữa trưởng thành gồm có sữa đầu bữa và sữa cuối bữa.
Sữa trưởng thành được tiết ra đầu bữa bú (sữa đầu) có màu trắng hơi xanh, chứa nhiều nước và các chất dinh dưỡng khác, vì vậy cần cho trẻ được bú sữa đầu bữa. Sữa trưởng thành được tiết ra cuối bữa bú (sữa cuối) có màu trắng sữa, chứa nhiều chất béo, cung cấp nhiều năng lượng, vì vậy cần cho trẻ bú hết sữa cuối bữa. Vì vậy trẻ phải bú được cả sữa đầu bữa và cuối bữa để có một bữa ăn đầy đủ dinh dưỡng và lượng nước cần thiết.
Tầm quan trọng của nuôi con bằng sữa mẹ
Sữa non có yếu tố tăng trưởng biểu bì giúp cho ruột phát triển hoàn thiện chức năng, phòng tránh dị ứng và không dung nạp thức ăn khác. Sữa non chứa nhiều vitamin A có tác dụng cải thiện tình trạng nhiễm khuẩn của trẻ; giàu natri, kali, vitamin E và kẽm. Vì vậy cần cho trẻ bú sớm trong vòng 1 giờ ngay sau đẻ để tận dụng nguồn sữa non.
Không nên cho trẻ ăn/uống bất cứ thức ăn, nước uống nào khác trước bữa bú đầu tiên.Nuôi trẻ bằng sữa mẹ trong tuần đầu sau sinh.
Ngay sau đẻ cần cho trẻ tiếp xúc da kề da với mẹ, để tạo điều kiện tự nhiên cho trẻ tìm vú mẹ và bắt đầu bữa bú đầu tiên. Theo đặc điểm sinh lý của trẻ, thời gian từ khi trẻ sinh ra được áp vào ngực bà mẹ cho đến khi trẻ tự tìm được bầu vú mẹ và bắt đầu bú vào khoảng 1 giờ. Đây được gọi là hành vi sinh tồn theo bản năng của trẻ.
Nuôi con bằng sữa mẹ trong 7 ngày đầu sau sinh: Sữa non dần chuyển thành sữa chuyển tiếp và sữa trưởng thành. Trong 3 ngày đầu thường lượng sữa chưa nhiều (còn gọi là sữa chưa về). Do vậy nhiều bà mẹ thường cho trẻ bú bình vì nghĩ là mình không đủ sữa cho trẻ bú. Trẻ sơ sinh cần được bú thường xuyên và bất cứ khi nào trẻ có biểu hiện đòi bú..
Từ 6 tháng trở đi, sữa mẹ vẫn giữ vai trò quan trọng cung cấp năng lượng và các chất dinh dưỡng cho trẻ. Trong đó từ 6 tháng đến 12 tháng, sữa mẹ tiếp tục cung cấp trên ½ nhu cầu dinh dưỡng của trẻ. Tuy nhiên, sữa mẹ sẽ không thể đáp ứng đầy đủ nhu cầu dinh dưỡng ngày càng tăng lên theo sự phát triển của trẻ, vì vậy ngoài sữa mẹ trẻ cần được ăn bổ sung.
Trong năm thứ hai, sữa mẹ vẫn đáp ứng được khoảng 30% nhu cầu năng lượng, 50% nhu cầu protein và 45% - 75% nhu cầu vitamin A cho trẻ, ngoài ra còn cung cấp các yếu tố kháng khuẩn bảo vệ trẻ khỏi mắc nhiều loại bệnh. Bên cạnh đó, giai đoạn này sữa mẹ vẫn tiếp tục đóng vai trò trong phát triển trí tuệ và nhận thức của trẻ. Vì vậy cần cho trẻ bú kéo dài đến 24 tháng tuổi cùng với chế độ ăn bổ sung hợp lý.
(Theo Tài liệu nuôi dưỡng trẻ nhỏ, Bộ Y tế)