Theo Báo Kinh tế đô thị, đan sâm là một cây thuốc quý, dạng cây cỏ, sống lâu năm, cây cao khoảng 30 - 80cm, thân màu đỏ nâu, đường kính 0.5- 1.5cm.
Thân vuông, trên có các gân dọc. Lá kép mọc đối, thường gồm 3 - 7 lá chét; lá chét giữa thường lớn hơn, lá chét có răng cưa tù; mặt trên lá chét màu xanh tro, có lông. Hoa mọc thành chùm ở đầu cành, dài 10 - 15cm, với 6 vòng hoa; mỗi vòng 3 - 10 hoa, thông thường là 5 hoa, màu đỏ tím nhạt. Tràng hoa 2 môi, môi trên cong hình lưỡi liềm, môi dưới xẻ ba thùy; 2 nhị ở môi dưới; bầu có vòi dài. Quả nhỏ, dài 3mm, rộng 1,5mm. Mùa ra hoa từ tháng 5 đến tháng 8. Mùa quả từ tháng 6 - 9 hằng năm.
Theo các nghiên cứu gần đây, Đan sâm còn có tác dụng chữa trị sự rối loạn tuần hoàn tim và não. Loại thảo dược này còn hiệu nghiệm trong điều trị chứng hồi hộp, đau nhói và thắt ngực, mất ngủ, vàng da và có tác dụng an thai.
Trong sách cổ có ghi về Đan sâm như sau: “Đan sâm có vị đắng, tính hơi hàn. Vào 2 kinh tâm và can là thuốc chữa bệnh về máu dùng cho phụ nữ trước và sau khi sinh nở, kinh nguyệt nhiều ít đều dùng được, vì nó có công dụng trục huyết ứ, sinh huyết mới, vừa an thai sống, vừa cho ra thai chết, chỉ huyết (cầm máu), điều kinh, tác dụng không kém bài tứ vật - gồm đương quy, địa hoàng, xuyên khung, bạch thược (theo Lý Thời Trân - Bản thảo cương mục). Còn có tác dụng chữa ung thũng, đơn độc, mẩn ngứa”.
Cũng theo Báo Sức khỏe và Đời sống, Đan sâm có nhiều tác dụng tốt đối với hệ tim mạch: Làm giãn động mạch vành tim, khiến lưu lượng máu trong động mạch vành tăng lên rõ ràng; cải thiện quá trình trao đổi chất và chức năng của cơ tim, do đó có khả năng hạn chế nhồi máu cơ tim; có tác dụng ức chế tiểu cầu phóng thích chất gây co mạch máu, làm giảm sự tụ tập tiểu cầu, cải thiện tuần hoàn ngoại vi.
Đối với quá trình chuyển hóa mỡ, đan sâm có tác dụng làm giảm triglicerit và cholesterol trong huyết thanh máu, do đó thường được sử dụng để phòng trị bệnh động mạch vành và một số bệnh tim mạch khác.
Ngoài ra, đan sâm còn có tác dụng kiềm chế quá trình lão suy, tăng cường miễn dịch, an thần, kháng khuẩn. Trên lâm sàng, đan sâm được sử dụng để chữa bệnh mạch vành tim, huyết khối trong mạch máu não, làm giảm mỡ máu, viêm tiền liệt tuyến, viêm gan mạn tính kéo dài, xơ gan cổ trướng, viêm khung chậu…
Theo Tri thức và cuộc sống, tác dụng của đan sâm có thể kể ra trong những bài thuốc sau:
- Chữa phụ nữ kinh nguyệt không đều: Đan sâm rửa sạch, thái phơi khô, tán nhỏ. Ngày uống 8g chia làm 2 hoặc 3 lần uống.
- Chữa kinh nguyệt không ra, đau: Đan sâm 10g, hương phụ 6g, đương quy 10g, bạch thược 5g, xuyên khung 5g, địa hoàng 10g, nước 600ml. Sắc còn 200ml chia làm 3 lần uống trong ngày.
- Chữa viêm tắc động mạch chi: Đan sâm, hoàng kỳ, mỗi vị 20g; Đương quy vĩ 16g, xích thược, quế chi, bạch chỉ, nghệ, nhũ hương, một dược, hồng hoa, đào nhân, tô mộc, mỗi vị 12g. Sắc uống ngày một thang.
- Chữa thần kinh suy nhược, nhức đầu, mất ngủ: Đan sâm, bạch thược, đại táo, hạt muồng sao, mạch môn, ngưu tất, huyền sâm, mỗi vị 16g; Dành dành, toan táo nhân, mỗi vị 8g. Sắc uống ngày một thang.
- Chữa viêm khớp cấp kèm theo tổn thương ở tim: Đan sâm, kim ngân hoa, mỗi vị 20g; Đảng sâm, hoàng kỳ, bạch truật, mỗi vị 16g; Đương quy, long nhãn, liên kiều, hoàng cầm, hoàng bá, mỗi vị 12g; Táo nhân, phục linh, mỗi vị 8g; Mộc hương, viễn chí, mỗi vị 6g. Sắc uống ngày một thang.
- Chữa đau tức ngực, đau nhói vùng tim: Đan sâm 32g, xuyên khung, trầm hương, uất kim, mỗi vị 20g, hồng hoa 16g, xích thược, hương phụ chế, hẹ, qua lâu, mỗi vị 12g, đương quy vĩ 10g. Sắc uống ngày một thang.
- Chữa suy tim: Đan sâm 16g, đảng sâm 20g, bạch truật, ý dĩ, xuyên khung, ngưu tất, trạch tả, mã đề, mộc thông, mỗi vị 16g. Sắc uống ngày một thang.
- Chữa tim hồi hộp, chóng mặt, nhức đầu, hoa mắt, ù tai: đan sâm, sa sâm, thiên môn, mạch môn, thục địa, long nhãn, đảng sâm, mỗi vị 12g; Táo nhân, viễn chí, bá tử nhân, mỗi vị 8g; Ngũ vị tử 6g. Sắc uống ngày một thang.
Theo Báo Sức khỏe và Đời sống, đan sâm là vị thuốc có công dụng thông huyết mạch, giúp lưu thông khí huyết, chống tụ máu, giảm đau thắt ngực. Thuốc được lấy từ phần rễ, sấy hoặc phơi khô của cây đan sâm. Tuy nhiên, cần có những lưu ý khi sử dụng như sau:
- Đan sâm có dạng thái miếng hoặc sắt khúc. Miếng to, chắc, khô, mềm, màu hồng tía là tốt. Là những vị thuốc tương đối an toàn, phạm vi tác dụng tương đối rộng, ít khi gây tác dụng phụ, tuy nhiên, vì là thuốc chữa bệnh không phải là thức ăn, do đó không nên uống quanh năm ngày tháng.
- Các bài thuốc nên uống theo từng đợt. Mỗi đợt có thể kéo dài từ 10-15 ngày, tùy theo bệnh tình. Sau mỗi liệu trình cần nghỉ 5 ngày, rồi lại tiếp tục liệu trình khác.
- Đối với các bệnh mạn tính, khi dùng đan sâm chữa bệnh, nếu bị đi lỏng thì có thể sao qua trước khi dùng hoặc cho thêm vào vài lát gừng tươi cùng sắc uống.
- Đan sâm không dùng chung với vị thuốc lê lô (hoa hiên). Người không có hội chứng huyết ứ (tụ máu) phải thận trọng, không nên dùng.
- Không dùng đan sâm cho phụ nữ có thai.