Nghiên cứu đứng đầu bởi phó giáo sư - tiến sĩ Kim Harley, đến từ Đại học California ở Berkeley (Mỹ). Nhóm của bà phát hiện ra rằng các bé gái có thể bị ảnh hưởng bởi các hóa chất phthalates, paraben và phenol ngay từ khi còn là một thai nhi trong bụng mẹ, chứ không cần đợi đến khi chúng lớn và bắt đầu dùng các sản phẩm đó.
Nghiên cứu theo dõi 338 trẻ em có mẹ ghi danh vào một chương trình thu thập dữ liệu phục vụ nghiên cứu khoa học từ tận những năm 1990. Người mẹ được đo nồng độ phthalates, paraben và phenol từ khi mang thai và sau đó đứa bé được theo dõi các nồng độ này cho đến tuổi dậy thì.
Kết quả cho thấy chỉ cần mỗi lần tăng gấp đôi nồng độ phthalates trong nước tiểu của người mẹ khi mang thai, chu kỳ kinh nguyệt đầu tiên của các cô gái sớm hơn 1,3 tháng. Điều tương tự xảy ra với phenol triclosan, với thời gian là 1 tháng.
Con số thoạt nhìn có vẻ nhỏ nhưng với thói quen sử dụng hóa mỹ phẩm của từng người, nồng độ các hóa chất này trong nước tiểu người này có thể nhiều hơn người kia rất nhiều lần.
Điều đáng buồn là phụ nữ hiện đại có vẻ ngày một gia tăng mức phơi nhiễm đối với các hóa chất này. Bộ ba hóa chất này có thể tìm thấy trong rất nhiều loại son môi, sơn móng tay, nước hoa, chất khử mùi, dầu gội, sữa tắm và cả kem đánh răng. Phthalates hay xuất hiện trong các sản phẩm có mùi thơm và sản phẩm có tính kháng khuẩn, paraben và phenol thường được dùng làm chất bảo quản để hóa mỹ phẩm có thể dùng được lâu hơn.
Nhóm nghiên cứu tìm hiểu cả những tác động lên bé trai lẫn bé gái nhưng dường như các bé trai không bị ảnh hưởng gì bởi các hóa chất này.
Các nhà khoa học kỳ vọng nghiên cứu này sẽ thúc đẩy các cơ quan có thẩm quyền thực hiện việc kiểm soát nồng độ bộ ba chất này trong hóa mỹ phẩm, bởi đây không phải là chất cấm và vẫn đang được sử dụng rộng rãi. Ngành y tế các nước châu Âu đang nỗ lực lý giải và lo ngại về việc trẻ em gái dậy thì ngày một sớm hơn, như một xu hướng trên toàn châu lục và có lẽ khắp thế giới: năm 1920, tuổi dậy thì trung bình là 14,6, đến 15 năm trước đây chỉ còn là 11 và hiện nay chỉ còn có 10.
Nghiên cứu vừa được công bố trên tạp chí khoa học Human Reproduction.