Anh đào là cây có quả hạch chứa một hạt cứng, thuộc họ Hoa hồng (Rosaceae), chi Mận mơ (Prunus), cùng chi với các loại cây như đào, mận, mơ... Thịt quả anh đào chứa nhiều sắt, vitamin A, B, C nên rất có lợi cho bệnh nhân thiếu máu do thiếu sắt.
Trong Y học cổ truyền, quả anh đào có vị ngọt, tính ấm, có tác dụng bổ nguyên khí, nhuận da tóc. Hạt anh đào tính ấm, có công hiệu giải độc, phòng sởi, tiêu đờm, tan nhọt. Lá anh đào vị ngọt tính ấm, có tác dụng ôn vị, kiện tỳ, cầm máu, giải độc.
Rễ cây anh đào cũng được dùng làm thuốc, vị thuốc này có tính bình, vị ngọt, tác dụng điều hòa khí huyết, chữa được bệnh đau bụng kinh, tắc kinh do khí huyết không điều hòa ở phụ nữ. Nó còn có tác dụng tẩy giun đũa, sát trùng.
Dưới đây là những bài thuốc trị bệnh từ anh đào được Hà Duyệt Phi, Vương Lợi Kiệt giới thiệu trong cuốn Những bài thuốc trị bệnh bằng trái cây:
Chữa bỏng: Dùng quả anh đào tươi ép lấy nước, bôi vào vết bỏng.
Mụn nhọt, ghẻ lở: Dùng hạt anh đào nghiền với giấm, bôi lên nốt mụn. Nếu ghẻ lở thì lấy lá anh đào giã nát, xát lên.
Chữa sa nang: Lấy hạt anh đào 60g, rang với giấm, tán bột, mỗi ngày uống 15 gam bằng nước đun sôi.
Chữa rắn và côn trùng cắn: Lá anh đào giã lấy nước, mỗi ngày uống nửa chén với rượu, đắp bã vào vết thương.
Phòng sởi: Hạt anh đào 30 hạt, giã nát, hành cả rễ 10 củ, sắc uống. Khi uống có thể tra thêm ít đường vừa đủ. Mỗi ngày 2 lần.
Chữa giun đũa, đau lạnh bụng: Lấy rễ anh đào 10-20g, sắc uống để chữa giun đũa. Nếu đau lạnh bụng thì lấy cành anh đào đốt thành than, tán bột, uống với rượu hâm nóng.