Vì vậy, khi sản phụ đến khám thai và trẻ được sinh ra từ người mẹ bị mắc những bệnh này, cơ sở y tế phải phát hiện kịp thời để có biện pháp xử trí điều trị phù hợp nhằm bảo vệ sức khỏe cho trẻ.
Người mẹ bị viêm gan B
Ở tuyến y tế xã, phường, thị trấn nếu phát hiện sản phụ bị viêm gan B trong giai đoạn mang thai thì khuyến cáo người mẹ nên sinh đẻ ở tuyến trên để việc xử trí sau khi sinh được đầy đủ hơn. Nếu sản phụ sinh đẻ tại trạm y tế thì phải tiêm phòng vắcxin viêm gan B cho trẻ sơ sinh ngay trong vòng 24 giờ sau khi sinh và tiêm globulin miễn dịch kháng virút viêm gan b nếu có; nếu không có điều kiện phải chuyển trẻ sơ sinh lên tuyến trên, lưu ý khuyến cáo người mẹ vẫn cho trẻ sơ sinh bú sữa mẹ bình thường.
Ở tuyến y tế quận, huyện, thị xã, thành phố và tỉnh phải tiêm bắp thịt ở đùi chân cho trẻ sơ sinh bằng vắcxin viêm gan B 0,5ml liều đầu tiên trong vòng 12 giờ sau khi sinh, tốt nhất là tiêm ngay sau sinh và tiêm càng sớm càng tốt. Nếu có globulin miễn dịch kháng virút viêm gan B thì tiêm bắp thịt 0,5 ml ở đùi của trẻ sơ sinh phía bên kia, tốt nhất là tiêm trong khoảng thời gian 12 - 24 giờ, chậm nhất là 48 giờ.
Người mẹ bị bệnh lao
Lưu ý nguyên tắc chung là nếu người mẹ đã điều trị bệnh lao đầy đủ hay đang điều trị bệnh lao đúng theo phác đồ quy định được 2 tháng thì không cần điều trị cho trẻ sơ sinh. Nếu người mẹ đang bị lao phổi tiến triển và được điều trị bệnh lao trước khi sinh chưa đủ 2 tháng hoặc mới phát hiện bệnh lao thì ở tuyến xã, phường, thị trấn vẫn khuyến khích người mẹ cho trẻ sơ sinh bú sữa mẹ, không được tiêm vắcxin BCG (Bacille Calmette Guérin) cho trẻ sau sinh và chuyển trẻ sơ sinh lên tuyến trên hoặc thông báo cho chương trình phòng chống bệnh lao để được hướng dẫn và chỉ định điều trị phù hợp.
Tại tuyến y tế quận, huyện, thị xã, thành phố và tỉnh phải thực hiện việc xử trí can thiệp như tuyến xã, phường, thị trấn và cho trẻ sơ sinh uống dự phòng thuốc Isoniazid (INH) với liều lượng 10mg/kg cân nặng mỗi ngày, uống 1 lần mỗi ngày và uống trong vòng 6 tháng. Khi trẻ được 6 tuần tuổi thì đánh giá lại cân nặng và cho trẻ chụp phim X-quang phổi để xem xét. Nếu trẻ không tăng cân hoặc có dấu hiệu gợi ý bệnh lao tiến triển thì điều trị thuốc chống lao theo đúng phác đồ quy định cho trẻ đến đủ 6 tháng tuổi. Nếu trẻ tăng cân tốt, xét nghiệm lao âm tính thì chỉ cho trẻ uống thuốc Isoniazid dự phòng trong vòng 6 tháng. Chỉ tiêm vắcxin BCG cho trẻ sau khi trẻ hoàn thành thời gian điều trị được 2 tuần. Đồng thời khuyên người mẹ tiếp tục điều trị bệnh lao cho đến khi ổn định.
Người mẹ bị bệnh giang mai
Ở tuyến y tế xã, phường, thị trấn phải lưu ý phát hiện các trường hợp sản phụ bị mắc bệnh giang mai qua quá trình quản lý thai nghén và kiểm tra xem sản phụ đã được điều trị đầy đủ hay chưa. Nếu chưa được điều trị thì khuyên sản phụ nên sinh đẻ tại tuyến trên để có điều kiện điều trị cho trẻ sau khi sinh. Đồng thời cần quan tâm phát hiện các triệu chứng của giang mai bẩm sinh của trẻ sơ sinh để chuyển lên điều trị ở tuyến trên khi thấy có biểu hiện các nốt đỏ, các đốm xám, phồng hay tuột da ở lòng bàn hay và bàn chân kèm theo gan to, lách to, vàng da, thiếu máu, nhiễm khuẩn nặng, Nếu có biểu hiện các triệu chứng này thì phải chuyển lên tuyến trên cả mẹ lẫn con để được điều trị phù hợp.
Ở tuyến y tế quận, huyện, thị xã, thành phố và tỉnh nếu ghi nhận người mẹ đã điều trị đầy đủ với liều lượng 2,4 triệu đơn vị thuốc Penicillin ít nhất 30 ngày trước khi sinh đẻ thì không cần điều trị cho trẻ sơ sinh. Trường hợp người mẹ chưa điều trị bệnh giang mai, điều trị chưa đầy đủ hoặc không biết chắc chắn quá trình điều trị của mình thì phải tiêm bắp thịt thuốc Procaine benzyl-penicillin hoặc Benzathine benzyl-pennicillin cho trẻ sơ sinh theo quy định: nếu trẻ sơ sinh không có biểu hiện triệu chứng bệnh, cần tiêm bắp thịt Procaine benzyl-penicillin 50.000 đơn vị/kg cân nặng hoặc Benzathine benzyl-pennicillin liều duy nhất cho trẻ. Nếu trẻ sơ sinh có biểu hiện triệu chứng bệnh, cần tiêm bắp Procaine benzyl-penicillin 50.000 đơn vị/kg cân nặng, tiêm 1 lần mỗi ngày, tiêm trong 10 ngày cho trẻ; hoặc Benzyl penicillin 50.000 đơn vị/kg cân nặng, tiêm 12 giờ một lần, tiêm trong 7 ngày đầu và 8 giờ một lần cho 3 ngày sau đó. Hẹn người mẹ đưa trẻ sơ sinh đến khám lại sau 4 tuần để kiểm tra sức khỏe, sự phát triển và triệu chứng của bệnh giang mai để có hướng điều trị tiếp tục.
Người mẹ bị bệnh lậu
Ở tuyến y tế xã, phường, thị trấn cần chẩn đoán bệnh lậu trẻ sơ sinh dựa vào tiền sử mắc bệnh lậu của người mẹ. Phải khám trẻ để xác định xem trẻ có bị nhiễm lậu cầu khuẩn hay không, cần chú ý đến triệu chứng viêm mắt có mủ vàng đặc cũng như có thể có bệnh cảnh nhiễm khuẩn toàn thân do lậu cầu khuẩn. Cần xử trí điều trị tùy theo từng trường hợp: nếu trẻ bị nhiễm khuẩn nhẹ, dùng thuốc Ceftriazon với liều duy nhất 25 - 50mg/kg cân nặng tiêm bắp thịt hay tiêm tĩnh mạch nếu có thể hoặc chuyển ngay lên tuyến trên; nếu trẻ có triệu chứng nhiễm khuẩn toàn thân nặng, phải chuyển lên tuyến trên, lưu ý cho tiêm 1 liều thuốc kháng sinh như ở trên trước khi chuyển tuyến.
Ở tuyến y tế quận, huyện, thị xã, thành phố việc chẩn đoán được thực hiện như tuyến xã, phường, thị trấn; đồng thời xét nghiệm soi, cấy tìm song cầu khuẩn lậu gram âm. Xác định xem trẻ sơ sinh chỉ bị viêm mắt hay còn bị nhiễm khuẩn huyết, viêm khớp hoặc kèm viêm màng não. Việc xử trí điều trị cũng tùy theo từng trường hợp: nếu người mẹ bị bệnh lậu chưa được điều trị ổn định thì nên tiêm dự phòng cho trẻ sơ sinh 1 liều duy nhất thuốc Ceftriazon 25 - 50 mg/kg cân nặng, tiêm bắp thịt với tổng liều không quá 125mg; nếu trẻ chỉ bị viêm mắt thì chỉ cần dùng 1 liều thuốc Ceftriazon duy nhất 25 - 50 mg/kg cân nặng, tiêm bắp thịt hay tiêm tĩnh mạch, không cần thiết phải dùng kháng sinh nhỏ mắt; nếu trẻ có triệu chứng nhiễm khuẩn toàn thân nặng hoặc điều trị 2 ngày không đỡ phải chuyển trẻ lên tuyến trên, cần cho tiêm 1 liều kháng sinh như ở trên trước khi chuyển tuyến.
Ở tuyến y tế tỉnh, việc chẩn đoán bệnh và xử trí can thiệp được thực hiện giống như tuyến y tế quận, huyện, thị xã, thành phố nhưng cần lưu ý chẩn đoán sớm mức độ nhiễm khuẩn do lậu cầu khuẩn phải dựa vào lâm sàng và các xét nghiệm cần thiết về vi khuẩn, sinh hóa... Trường hợp trẻ sơ sinh chỉ bị bệnh lậu ở mắt, xử trí điều trị như ở tuyến dưới; nếu trẻ sơ sinh bị nhiễm khuẩn huyết, viêm khớp hay viêm màng não do lậu cầu khuẩn thì sử dụng thuốc Ceftriazon với liều lượng 25 - 50 mg/kg cân nặng, tiêm bắp thịt hay tiêm tĩnh mạch, tiêm mỗi ngày một lần trong thời gian từ 10 - 14 ngày hoặc thuốc Cefotaxim liều lượng 50 mg/kg cân nặng mỗi ngày chia làm 2 lần, dùng trong 7 ngày hoặc 10 - 14 ngày nếu có viêm màng não.
Người mẹ nhiễm HIV
Ở tuyến y tế xã, phường, thị trấn cần thực hiện các nhiệm vụ quy định theo quy trình chăm sóc và điều trị dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con tại tuyến xã, phường, thị trấn. Phải quản lý và theo dõi giám sát điều trị dự phòng, chuyển tuyến khi nghi ngờ trẻ có nhiễm khuẩn. Hỗ trợ, theo dõi tuân thủ việc điều trị cho người mẹ và trẻ sơ sinh sau khi sinh với cách dùng thuốc và dinh dưỡng quy định cho trẻ. Trẻ vẫn có thể được tiêm chủng vắcxin phòng bệnh theo lịch tiêm chủng nhưng tránh các loại vaccin sống như BCG, sabin.
Ở tuyến y tế quận, huyện, thị xã, thành phố việc chẩn đoán xác định dựa vào hồ sơ bệnh án và thông tin từ khoa sản hay tuyến dưới với kết quả xét nghiệm thực hiện tại các cơ sở y tế đã được Bộ Y tế công nhận. Việc chẩn đoán và xử trí phải tuân theo quy định và hướng dẫn chung. Lưu ý xử trí, chăm sóc trẻ ngay sau sinh với nguyên tắc vô khuẩn, chống lây nhiễm chéo; kiểm tra xem người mẹ đã được dùng thuốc điều trị dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con hay chưa. Phải điều trị cho trẻ sơ sinh theo phác đồ hướng dẫn quốc gia: nếu người mẹ đã được điều trị thuốc Zidovudine (AZT) 4 tuần trước khi sinh thì tiếp tục điều trị AZT cho trẻ sơ sinh trong 6 tuần sau khi sinh với liều lượng uống 2 mg/kg cân nặng, uống 6 giờ một lần; nếu người mẹ đã được điều trị một liều Nevirapine trong khi sinh, trẻ sơ sinh chưa được 3 ngày tuổi thì cho trẻ uống ngay Nevirapin 2 mg/kg cân nặng mỗi ngày. Theo dõi trẻ sơ sinh trong 10 ngày để kiểm tra tình trạng dinh dưỡng và tăng trưởng. Về dinh dưỡng, cần tư vấn thực hiện việc dinh dưỡng cho trẻ sơ sinh theo khuyến nghị của Bộ Y tế. Trường hợp không thể điều trị cho trẻ sơ sinh bằng thuốc kháng virút thì nhân viên y tế phải tư vấn kỹ với gia đình để chuyển trẻ đến tuyến điều trị thích hợp.
Ở tuyến y tế tỉnh, việc chẩn đoán và xử trí điều trị được thực hiện như tuyến quận, huyện, thị xã, thành phố nhưng cần tiến hành các xét nghiệm kiểm tra theo đúng quy định. Chú ý tư vấn và hướng dẫn cho gia đình những vấn đề cần thiết sau khi trẻ sơ sinh xuất viện. Phải có kế hoạch theo dõi cụ thể hoặc chuyển hồ sơ bệnh án của trẻ sơ sinh và người mẹ sang Trung tâm Kiểm soát bệnh tật CDC (centers for disease control and prevention) để theo dõi về sức khỏe và thực hiện các xét nghiệm định kỳ cho trẻ sau này.
Lời khuyên của thầy thuốc:
Hiện nay với sự phát triển của xã hội nên một số bệnh xã hội như viêm gan B, bệnh lao, bệnh lậu, bệnh giang mai, nhiễm HIV trên thực tế có thể xảy ra ở phụ nữ mang thai và bệnh có khả năng lây lan làm ảnh hưởng đến sức khỏe của trẻ sơ sinh khi được sinh ra từ các người mẹ bị mắc các bệnh này. Vì vậy, người phụ nữ mang thai cần cung cấp thông tin đầy đủ cho bác sĩ, nhân viên y tế khi đi khám thai hoặc khi sinh đẻ; đồng thời các cơ sở y tế cũng cần quan tâm phát hiện, chẩn đoán và có biện pháp can thiệp xử trí điều trị phù hợp để bảo vệ trẻ khi được sinh ra với những bệnh bẩm sinh lây nhiễm từ người mẹ. Phát hiện, điều trị bệnh cho người mẹ để bảo vệ sức khỏe cho trẻ khi được sinh ra là vấn đề cần được quan tâm không những của ngành y tế mà của cả toàn xã hội.