Thậm chí họ còn không dám nói với người nhà rằng bản thân bị viêm gan B, vì sợ gây mâu thuẫn gia đình. Thực tế, những bệnh nhân này chỉ cần chuẩn bị tốt mọi chuyện trước khi mang thai, thì sẽ không còn mấy trở ngại...
Nỗi niềm khó nói
Liên mới sinh con, một cậu bé trắng trẻo bụ bẫm như thiên thần. Cả gia đình đều rất vui mừng, mẹ chồng chị một mặt chăm sóc cậu bé cẩn thận từng li từng tí, một mặt chịu khó mua rất nhiều thực phẩm lợi sữa về chế biến cho Liên. Bà mong lắm giờ phút Liên có sữa, cho cháu mình bú những giọt sữa non ngọt ngào đầu tiên trong cuộc đời. Ai dè, Liên nhất định không chịu cho con bú. Giữa hai mẹ con bùng nổ một trận khẩu chiến. Mẹ chồng Liên tức giận, cho rằng cô quá đáng, đến đứa con rứt ruột đẻ ra của mình mà còn không thương rồi phẩy tay áo bỏ về nhà, để Liên ở lại viện một mình tủi thân vì nỗi niềm riêng.
Hóa ra, Liên vốn mắc bệnh viêm gan B từ trước khi có thai. Khi mang bầu, cô và chồng đều không dám nói thật với gia đình, sợ mọi người phân biệt đối xử với cô và đứa bé. Đi tư vấn bác sỹ, Liên được biết phụ nữ mắc viêm gan B không nên cho con bú sữa mẹ. Nhưng các bác sỹ cũng khuyên bệnh nhân không nên giấu gia đình, mà cần phải nói ra để được mọi người thông cảm.
Thời điểm quan trọng
Đối với phụ nữ mắc bệnh viêm gan B, thời điểm thụ thai rất quan trọng. Nguy cơ truyền viêm gan siêu vi B từ mẹ sang thai nhi phụ thuộc vào thời điểm mắc bệnh. Nếu mẹ bị bệnh vào quý I của thai kỳ thì tỷ lệ truyền bệnh là 1%, vào quý II là 10% và quý III là 60 - 70%.
Những bệnh nhân mắc bệnh viêm gan B cấp tính, nếu được chữa trị kịp thời và chăm sóc hợp lý, trong vài tháng là có thể hồi phục. Khi đó, chức năng gan lại trở lại bình thường, người bệnh có thể mang thai được.
Đối với những bệnh nhân bị bệnh mãn tính, nếu là người có mang virus, kết quả kiểm tra chức năng gan trong một thời gian dài là bình thường, gan không bị xơ hóa thì có thể có thai. Nếu bệnh nhân đang ở giai đoạn virus đang hoạt động, chức năng gan bất thường, hay cảm thấy mệt mỏi, chán ăn, bị phù… thì nên tránh mang thai. Nếu không, cơ thể phải chịu gánh nặng quá lớn, gan phải làm nhiều việc hơn nên dễ dẫn tới tình trạng bệnh nặng hơn, ảnh hưởng tới tính mạng của thai phụ. Đồng thời, cũng không có lợi so với sự phát triển của thai nhi. Bệnh nhân trong gia đoạn virus đang hoạt động, trước hết nên trải qua những xét nghiệm thường quy, đợi khi chức năng gan trở lại bình thường, chỉ số HBsAg âm tính mới nên mang thai.
Nên dừng uống thuốc khi có thai
Những bệnh nhân viêm gan B khi đã có thai, nên dừng tất cả các loại thuốc trừ thuốc bổ cho bà mẹ mang thai. Vào tháng thứ 7, 8, 9 của thai kỳ, cần tiêm mỗi tháng một mũi globulin miễn dịch, để tránh truyền bệnh trong tử cung (từ mẹ sang con). Trẻ sinh ra sẽ được tiêm huyết thanh đặc hiệu chống siêu vi B (Ig anti-HB) ngay trong phòng sinh 100 đơn vị quốc tế. Tiếp sau đó, tiêm vaccine viêm gan B ở một vị trí khác trên cơ thể trẻ sơ sinh theo công thức 3 mũi (mũi 1 sau khi sinh, mũi 2 khi trẻ 1 tháng tuổi, mũi 3 khi trẻ được 6 - 12 tháng). Sau 15 năm tiêm nhắc lại. Nếu được điều trị đúng cách, sẽ giảm khả năng bị lây nhiễm bệnh từ mẹ ở trẻ sơ sinh.