Vào một chiều mưa, ngồi đối diện với bác sĩ là một phụ nữ với giọng nói lạc đi vì sợ hãi: “Gia đình tôi có tiền sử bị ung thư vú, mẹ và bà tôi đều chết vì căn bệnh này, và gần đây, chị gái tôi 45 tuổi cũng đã mắc bệnh. Với đặc điểm này của gia đình, tôi không thể không lo sợ cho cô con gái 9 tuổi của mình.
Tôi đã đọc nhiều nghiên cứu cho rằng tiền sử bệnh tật trong gia đình rất quan trọng và tôi nghĩ con gái tôi khó tránh khỏi được căn bệnh này.
Một trong những cách giải quyết tôi đã nghĩ đến là phẫu thuật cắt bỏ vú cho con bé, cắt bỏ cả hai bên vú. Bác sĩ có lời khuyên nào không?”
Bệnh nhân này rõ ràng rơi vào một hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Liệu cô ấy có nên để con gái mình lớn lên cùng nguy cơ bệnh tật chết người đang rình rập, hay chọn tồn tại mà không có vú?
Đừng vội hoang mang, cũng đừng quá lo sợ. Thực sự thì nếu gia đình bạn có tiền sử bị ung thư vú, bạn sẽ ở trong nhóm có nhiều nguy cơ mắc bệnh này. Tuy nhiên, một người có gene mầm bệnh không có nghĩa là họ sẽ bị ung thư.
Một nhóm nghiên cứu đã phát hiện ra rằng, chỉ có khoảng 3% các trường hợp ung thư vú có thể là do tiền sử bệnh lý của gia đình, nghĩa là chỉ có một số ít trường hợp mắc bệnh ung thư là do các gene gây ra.
Hiện tại, vẫn còn khá nhiều tranh cãi xung quanh các phát hiện mới liên quan đến ung thư vú, nhưng trong giới hạn của bài này, bác sĩ Trần Lê Vũ sẽ cung cấp những thông tin cơ bản về bệnh ung thư vú ở nữ giới.
Ung thư vú là một trong các loại ung thư thường gặp nhất ở nữ giới. Tại Hoa Kỳ, nó là loại ung thư gây tử vong vào hàng thứ hai ở nữ và nếu xét riêng trong nhóm nữ từ 45 - 55 tuổi, nó là loại ung thư gây tử vong hàng đầu.
Tỷ lệ tử vong do ung thư vú đã giảm trong 20 năm qua, một phần bởi vì việc tầm soát tốt hơn đã giúp phát hiện bệnh sớm hơn và vì thế cơ hội để chữa khỏi và phục hồi là lớn hơn.
Ung thư vú ở giai đoạn sớm thường không đau và cũng không có triệu chứng gì khác. Khi một khối u vú phát triển, những biến đổi nhất định có thể xảy ra.
Những biến đổi này bao gồm cục u trong hay gần vú hay dưới cánh tay hay những biến đổi trong hình dạng và kích thước của vú. Màu sắc hay cảm giác của da vú, quầng vú hay núm vú (lõm, nhăn nheo, đóng vảy) có thể thay đổi. Bệnh nhân có thể có xuất tiết, mòn, loét, lộn ngược hay đau của núm vú.
Nhiều bệnh nhân cảm nhận được cục u hoặc sự thay đổi của vú. Dù thế nào chúng ta cũng không nên phớt lờ một cục u ở vú. Một kết quả chụp nhũ ảnh bất thường có thể gợi ý cho ung thư vú.
Chụp nhũ ảnh có thể bỏ sót ung thư vú trong khoảng 20% các trường hợp. Do vậy, vài bệnh nhân có nguy cơ cao mắc ung thư vú cũng có thể được chỉ định chụp MRI vú để tầm soát. Khi nghi ngờ có ung thư vú, bác sĩ sẽ lấy (sinh thiết) một mẫu mô nhỏ của vùng bất thường để khảo sát.
Để điều trị ung thư vú, trước hết bác sĩ phải tiến hành phân chia giai đoạn. Phân chia giai đoạn cho biết ung thư đã phát tán bao xa, để quyết định điều trị cũng như tiên lượng.
Những điều nên làm để kiểm soát, quản lý, phát hiện ung thư vú:
1. Uống thuốc nếu được bác sĩ đề nghị.
2. Tham gia các nhóm hỗ trợ để giúp bạn vượt qua giai đoạn khủng hoảng.
3. Tái khám định kỳ với bác sĩ để theo dõi diễn tiến của bệnh.
4. Thông thạo cách tự khám vú định kỳ.
5. Khám sức khỏe tổng quát định kỳ để tầm soát phát hiện bệnh sớm.
6. Đừng ngại tham vấn bác sĩ nếu bạn có bất kỳ nghi vấn nào về bệnh lý này.
7. Hạn chế uống rượu, bia
8. Không hút thuốc lá
Phân chia giai đoạn của ung thư được dựa vào kích thước của khối u, có hay không có sự xâm nhập của khối u vào da, thành ngực và hạch vùng xung quanh và có hay không có ung thư đã phát tán đến các cơ quan khác (di căn). Sinh học phân tử của ung thư được dựa vào sự quan sát dưới kính hiển vi, protein của khối u và các chỉ điểm gene.
Tất cả các yếu tố trên giúp bác sĩ lựa chọn cách điều trị: phẫu thuật, xạ trị, và điều trị nội khoa với việc sử dụng các loại thuốc như thuốc đối kháng estrogens, hóa trị và các loại thuốc điều trị phân tử đích.
Hầu hết bệnh nhân sẽ được phẫu thuật để loại bỏ khối u. Phẫu thuật để cắt bỏ vú, toàn bộ hay một phần, gồm có: cắt bỏ một phần vú, cắt bỏ vú tận gốc, cắt bỏ vú tận gốc mở rộng hay cắt bỏ vú tận gốc có giới hạn.
Các hạch bạch huyết và cơ có liên quan cũng có thể bị loại bỏ. Xạ trị, hóa trị và điều trị hormone có thể được sử dụng trước hoặc sau phẫu thuật. Vú có thể được tái tạo sau phẫu thuật.
Xạ trị dùng tia X năng lượng cao để giết khối u. Chất phóng xạ trong kim hoặc dụng cụ hình trụ được gọi là seeds, dây dẫn hoặc ống thông có thể được đặt trong hoặc gần khối u.
Hóa trị dùng thuốc để giết các tế bào ung thư hay bắt chúng ngừng phân chia. Thuốc có thể dùng bằng đường uống, tiêm tĩnh mạch hay tiêm bắp, hoặc đặt gần tế bào ung thư.
Điều trị hormone (tamoxifen và ức chế aromatase) giúp ngăn chặn hormone (đặc biệt estrogen) thúc đẩy tế bào ung thư phát triển. Điều trị sinh học sử dụng hệ miễn dịch của cơ thể để giết tế bào ung thư.