Trước khi thẻ CCCD gắn chip được triển khai, người dân thường sử dụng một trong 3 loại giấy tờ tùy thân là CMND 9 số, CMND 12 số và CCCD mã vạch.
Khoản 2 Điều 19 Luật CCCD quy định, số thẻ CCCD là số định danh cá nhân.
Theo Điều 13 Nghị định 137/2015/NĐ-CP hướng dẫn Luật CCCD, số định danh cá nhân dãy số tự nhiên gồm 12 số, trong đó 6 số là mã thế kỷ sinh, mã giới tính, mã năm sinh của công dân, mã tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc mã quốc gia nơi công dân đăng ký khai sinh và 6 số là khoảng số ngẫu nhiên.
Như vậy, nếu người dân đang sử dụng CMND 9 số thì khi đổi sang CCCD sẽ bị đổi thành 12 số. Đối với trường hợp sử dụng CMND 12 số, trước đây tại thời điểm áp dụng mẫu này, Thông tư 27/2012/TT-BCA (hiện nay cả nước đã cấp CCCD gắn chip nên Thông tư này hết hiệu lực) quy định: "Số CMND gồm 12 chữ số tự nhiên được Bộ Công an cấp và quản lý thống nhất trên toàn quốc. Trường hợp đổi, cấp lại CMND thì số ghi trên CMND được đổi, cấp lại vẫn giữ đúng theo số ghi trên CMND đã cấp lần đầu".
Trên thực tế, số thẻ CMND 12 số vẫn được giữ nguyên kể cả khi người dân đổi sang thẻ CCCD gắn chip điện tử.
Tương tự, khi đổi thẻ CCCD mã vạch sang thẻ CCCD gắn chip, 12 số trên thẻ CCCD mã vạch cũng sẽ được giữ nguyên.
Ngoài ra, trường hợp đổi từ CMND 9 số sang CCCD gắn chip bị thay đổi số, người dân cần cập nhật, thay đổi thông tin tài khoản ngân hàng, thông tin trên hộ chiếu, thông tin sổ BHXH, thông báo với cơ quan thuế, cập nhật thông tin sổ đỏ và các giấy tờ khác liên quan.
Theo Điều 12 Thông tư 59/2021/TT-BCA, người dân có thể yêu cầu cơ quan quản lý CCCD nơi có trách nhiệm cấp Giấy xác nhận số CMND. Sau đó, dùng Giấy xác nhận CMND cũ để thay đổi, cập nhật các giấy tờ liên quan.