Thông tấn xã Việt Nam cho biết, theo tin từ Ban Bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cán bộ TƯ, nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười, sau một thời gian lâm bệnh nặng, mặc dù được Đảng, Nhà nước, tập thể các giáo sư, bác sỹ trong và ngoài nước tận tình cứu chữa, gia đình hết lòng chăm sóc, nhưng do tuổi cao sức yếu, đã từ trần hồi 23 giờ 12 phút ngày 1/10, tại bệnh viện Trung ương Quân đội 108.
Nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười sinh ngày 2/2/1917, tại xã Đông Mỹ, huyện Thanh Trì, Hà Nội.
Năm 19 tuổi, ông đã tham gia hoạt động trong phong trào Mặt trận bình dân. Năm 1939, ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương.
Năm 1941, ông bị thực dân Pháp bắt và kết án 10 năm tù giam tại Hoả Lò - Hà Nội.
Tháng 3/1945, ông vượt ngục và tiếp tục hoạt động cách mạng, tham gia Tỉnh uỷ Hà Đông, trực tiếp lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Đông.
Sau tháng Tám 1945, ông giữ chức Bí thư Tỉnh uỷ Hà Đông.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, ông Đỗ Mười lần lượt đảm nhận các công tác khác nhau tại các tỉnh đồng bằng Bắc bộ và Liên khu 3; Bí thư Tỉnh uỷ Hà Nam; Bí thư kiêm Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến hành chính tỉnh Nam Định; Khu uỷ viên Khu 3 kiêm Bí thư Tỉnh uỷ Ninh Bình; Phó Bí thư liên Khu uỷ 3 kiêm Phó chủ tịch Uỷ ban kháng chiến hành chính Liên khu 3; chính uỷ Bộ Tư lệnh Liên khu 3; Bí thư Khu uỷ tả ngạn Sông Hồng kiêm Chủ tịch Uỷ ban Kháng chiến hành chính và Chính uỷ Bộ Tư lệnh Khu tả ngạn Sông Hồng.
Năm 1955, ông là Bí thư Thành uỷ kiêm Chủ tịch Uỷ ban quân chính TP Hải Phòng.
Tại hội nghị TƯ lần thứ 7 vào tháng 3/1955, ông Đỗ Mười được bầu bổ sung làm ủy viên dự khuyết Ban chấp hành TƯ Đảng khoá 2. Một năm sau, ông được cử giữ chức Thứ trưởng Bộ Nội thương. Năm 1958, ông được cử giữ chức Bộ trưởng Bộ này.
Tháng 9/1960, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 3 của Đảng Lao động Việt Nam, ông Đỗ Mười được bầu là ủy viên Ban chấp hành TƯ Đảng.
Từ năm 1961 - 1969, ông lần lượt đảm nhiệm các chức vụ: Chủ nhiệm Ủy ban Vật giá nhà nước, Trưởng phái đoàn thanh tra của Chính phủ. Từ 1969 - 1971, ông được cử giữ chức Phó Thủ tướng, Chủ nhiệm Văn phòng Kinh tế Phủ Thủ tướng.
Năm 1971, ông Đỗ Mười được QH khoá 4 bầu giữ chức Phó Thủ tướng, Chủ nhiệm Uỷ ban kiến thiết cơ bản. Từ tháng 6/1973 đến tháng 11/1977, ông được cử giữ chức Bộ trưởng Xây dựng.
Tháng 12/1976 tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 4 của Đảng, ông được bầu vào Ban chấp hành TƯ và ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị, tiếp tục giữ chức Phó Thủ tướng nhiệm kỳ 1976-1981.
Tháng 7/1981, ông được QH khoá 7 bầu giữ chức Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Tháng 3/1982, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 5 của Đảng, ông được bầu vào Ban chấp hành TƯ, ủy viên Bộ Chính trị, tiếp tục giữ chức Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
Tháng 12/1986, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 6 của Đảng, ông Đỗ Mười được bầu vào Ban chấp hành TƯ, ủy viên Bộ Chính trị và Thường trực Ban Bí thư. Tháng 6/1988, Quốc hội khoá 8 bầu ông giữ chức Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 7 và 8, ông Đỗ Mười được bầu vào Ban chấp hành TƯ, ủy viên Bộ Chính trị, giữ chức Tổng bí thư Ban chấp hành TƯ (6/1991 - 12/1997).
Tháng 12/1997, ông được hội nghị Ban chấp hành TƯ Đảng lần thứ 4 (khoá 8) cử làm Cố vấn Ban chấp hành TƯ Đảng đến năm 2001.