Các xu hướng tình dục và tình dục đồng giới
Theo các nhà khoa học, tình dục đồng giới là tình trạng một người có xu hướng và sở thích quan hệ tình dục với người cùng giới; ở nam giới gọi là đồng giới nam, ở nữ giới gọi là đồng giới nữ. Thường tính dục con người được tạo thành từ 4 yếu tố gồm: giới sinh học như thể nhiễm sắc XY, ngoại hình, nội tiết tố (hoóc-môn); bản sắc giới như sự tự ý thức về bản thân mình thuộc vào giới nào; vai trò xã hội của giới như các hành vi, thái độ cư xử, thái độ ứng xử theo kiểu của nam hay của nữ và xu hướng tình dục. Yếu tố xu hướng tình dục được xác định là sự hấp dẫn bền vững về mặt tình cảm và tình dục đối với một người thuộc giới nào đó.
Trên thực tế có 4 loại xu hướng tình dục bao gồm: xu hướng tình dục khác giới (heterosexuality) với biểu hiện có ham muốn và sinh hoạt tình dục với người khác giới như bình thường, xu hướng tình dục đồng giới (homosexuality) với biểu hiện chỉ ham muốn và quan hệ tình dục với người cùng giới, xu hướng tình dục lưỡng giới (bisexuality) với biểu hiện có ham muốn và thích quan hệ tình dục với cả hai giới nam nữ, không có xu hướng tình dục với bất cứ giới nào (asexuality) với biểu hiện không ham muốn quan hệ tình dục với bất cứ giới nào. Quan điểm hiện nay cho rằng xu hướng tình dục được hình thành ở một cá thể ngay từ rất sớm do tác động qua lại của rất nhiều yếu tố sinh học, tâm lý và xã hội.
Nguyên nhân gây nên tình dục đồng giới
Các nhà khoa học đã nêu lên một số giả thuyết lý giải cho xu hướng tình dục đồng giới gồm: thuyết phân tâm học của Freud, thuyết về di truyền học, do rối loạn nội tiết tố (hormone) và do tập quán sinh hoạt.
Thuyết phân tâm học của Freud: theo nhà khoa học Freud, bình thường thời kỳ phát triển tính dục ở cả trẻ em trai và trẻ em gái đều tồn tại một phức hợp Ơ-đíp (Oedipus), đây là một trong những hình tượng quan trọng và nổi tiếng nhất trong thần thoại Hy Lạp. Nhờ phức hợp này mà trẻ em trai hình thành nên nhân cách của một người đàn ông, còn ở trẻ em gái sẽ hình thành nên nhân cách của một người phụ nữ. Hiện tượng đồng giới xảy ra khi xuất hiện mặc cảm Ơ-đíp. Trẻ em trai do mặc cảm và quá lo sợ vì đã yêu mẹ mình một cách dục tính nên đã quay lại yêu người đồng giới, còn trẻ em gái thì ngược lại do không thể yêu cha mình một cách dục tính nên đã quay lại yêu người đồng giới với mình.
Việc tư vấn và hỗ trợ tâm lý cần chú ý đến vấn đề không kỳ thị, thành kiến
Thuyết về di truyền học: qua nhiều nghiên cứu được thực hiện trên các cặp trẻ sinh đôi cùng trứng và khác trứng, các nhà di truyền học cho rằng gen đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành xu hướng tình dục đồng giới, nhưng đó không phải là yếu tố duy nhất mà còn có tác động của các yếu tố môi trường.
Do rối loạn về nội tiết tố (hoóc-môn): ở nam giới, nếu nội tiết tố nữ giới tăng cao và ngược lại nội tiết tố nam giới giảm thấp thì hình thành tính nết giống như phụ nữ và có sở thích về tình dục thích đàn ông. Trái lại ở nữ giới, nếu nội tiết tố nam giới tăng cao và ngược lại nội tiết tố nữ giới giảm thấp thì hình thể bên ngoài sẽ giống đàn ông, tính nết giống đàn ông nhưng sở thích tình dục lại thích phụ nữ.
Do tập quán sinh hoạt: nếu con người sống và sinh hoạt trong một thời gian quá dài với tập thể những người cùng giới tính, việc giải quyết nhu cầu tình dục qua quan hệ tình dục với người đồng giới tính đã thành thói quen và trở thành một phản xạ có điều kiện.
Biện pháp chăm sóc và hỗ trợ tâm lý cho người có tình dục đồng giới
Trước tiên phải hỏi kỹ những điều kiện sinh hoạt trong gia đình của người có tính dục đồng giới từ nhỏ, tình trạng tâm lý và hoàn cảnh sống hiện tại để tìm hiểu các vấn đề có liên quan đến các yếu tố có thể gây nên hiện tượng này như bản sắc giới, xu hướng tình dục... Tiếp theo cần khám thực thể để tìm các dị tật bẩm sinh trên đường sinh dục; khám phát hiện tìm các thương tổn do tình dục đồng giới gây nên như loét, viêm, dấu hiệu nghi ngờ bạo hành tình dục... Các xét nghiệm cận lâm sàng cũng cần được thực hiện như xét nghiệm định lượng những nội tiết tố (hoóc-môn) liên quan như LH (luteinizing hormone), FSH (follicle stimulating hormone), prolactine, estradiol và testosterone; xét nghiệm nhiễm sắc đồ; tư vấn xét nghiệm HIV (human immunodeficiency virus) tự nguyện và các bệnh lây truyền qua đường tình dục vì những người tình dục đồng giới có nhiều nguy cơ cao mắc những loại bệnh này.
Những người có tình dục đồng giới có nguy cơ cao mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục và HIV, nhất là những người có quan hệ tình dục qua đường hậu
môn
Về chăm sóc, phải tư vấn và hỗ trợ việc tạo điều kiện sinh hoạt phù hợp để thay đổi môi trường sống cũng như dùng biện pháp điều trị tâm lý nếu cần. Nếu có rối loạn về nội tiết tố thì phải bồi phụ nội tiết tố để cân bằng theo từng giới tính. Lưu ý việc điều trị các bệnh lây truyền qua đường tình dục, HIV và các tổn thương đường sinh dục nếu có. Đồng thời nên khuyến khích và làm thủ tục chuyển gửi đến các cơ sở điều trị thay thế tình trạng nghiện các chất dạng thuốc phiện nếu cần.
Việc tư vấn và hỗ trợ tâm lý cần chú ý đến vấn đề không kỳ thị, thành kiến, phân biệt đối xử với người có tình dục đồng giới và tình dục lưỡng giới. Phải thấu hiểu về hoàn cảnh và thách thức đặc biệt mà người thân của những người có tình dục đồng giới và tình dục lưỡng giới phải đối mặt. Cần tư vấn, hướng dẫn về các nguy cơ ảnh hưởng đến tình hình sức khỏe của người có tình dục đồng giới và tình dục lưỡng giới. Những người có tình dục đồng giới có nguy cơ cao mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục và HIV, nhất là những người có quan hệ tình dục qua đường hậu môn. Đồng thời nên khuyến khích và làm thủ tục chuyển gửi đến các nhóm, tổ chức, cơ quan bảo trợ xã hội phù hợp để hỗ trợ về mặt tâm lý, kinh tế, pháp lý nếu cần thiết.
Lời khuyên của thầy thuốc
Tình dục đồng giới hiện nay là một hiện tượng xảy ra khá phổ biến trong xã hội và ngày càng có xu hướng tăng lên do môi trường sống, sinh hoạt của xã hội phát triển và đang phát triển với nhiều yếu tố khác nhau ảnh hưởng. Thực tế có nhiều quốc gia trên thế giới đã công nhận vấn đề tình dục đồng giới, thậm chí cho phép những người có tình dục đồng giới đăng ký kết hôn để sống chung với nhau như những đôi nam nữ bình thường. Vì vậy, phải chấp nhận thực trạng này hình thành trong xã hội đang sống, tuy nhiên các đối tượng này cần được thực hiện những biện pháp cụ thể để chăm sóc và hỗ trợ tâm lý một cách phù hợp nhằm giúp họ sống hòa nhập cộng đồng; không kỳ thị, thành kiến, phân biệt đối xử và nên được công nhận về mặt pháp lý.