Tỉ lệ tử vong ở các giai đoạn ung thư vú

Theo thống kê, tần suất tử vong sau 5 năm với ung thư vú (ung thư giai đoạn 0 hay ung thư tại chỗ) khá thấp. Nghĩa là tỉ lệ sống còn 5 năm lên tới 90 – 96%.

Giai đoạn 2 có thể trên dưới 90%. Ung thư vú giai đoạn 3, tỉ lệ sống còn giảm xuống khoảng 60% - 65%. Giai đoạn 4 (giai đoạn di căn), tỉ lệ này chỉ còn trên dưới 20% - 25%.

Với những phương pháp điều trị hiện đại ngày nay cùng sự phát triển của công nghệ gen, thời gian sống còn của bệnh nhân ung thư vú ngày càng dài ra hơn.

Thời gian sống còn của bệnh nhân ung thư vú ngày càng được kéo dài - Ảnh minh họa: Internet

Đến giai đọan ung thư di căn (giai đoạn 4), bệnh không thể trị khỏi được. Tuy nhiên, hiện nay y khoa đã đưa ung thư vào bệnh lý mạn tính giống như các bệnh lý khác như tiểu đường hoặc cao huyết áp để điều trị lâu dài.

Bệnh nhân ung thư vú giai đoạn 4 hoặc đang điều trị ung thư vú những giai đoạn khác hoàn toàn có quyền hy vọng các phương pháp điều trị hiện đại sẽ giúp chúng ta kéo dài thời gian sống để chất lượng cuộc sống hiệu quả hơn.

Phương pháp điều trị ung thư vú hiện nay

Hiện nay, có rất nhiều phương pháp điều trị ung thư. Trong giai đoạn sớm, có thể sử dụng các phương pháp như: Phẫu thuật, xạ trị, hóa trị hoặc điều trị miễn dịch. Bác sĩ điều trị có thể làm đơn độc hoặc phối hợp các phương pháp này theo từng tình huống, cá thể hóa trên từng bệnh nhân.

Phẫu thuật là phương phương pháp lựa chọn phổ biến khi phát hiện ung thư vú trong giai đoạn sớm - Ảnh minh họa: Internet

Hiện nay, y khoa đang đào sâu nghiên cứu về lĩnh vực miễn dịch. Các chuyên gia có thể khống chế hoặc kích thích hệ miễn dịch để kiểm soát bệnh tốt hơn.

Trong giai đoạn sớm, ung thư vú ưu tiên lựa chọn phương pháp phẫu thuật. Một trong những phương pháp có kiểm soát tại chỗ là tiến hành xạ trị sau phẫu thuật. Mục đích nhằm khống chế những tế bào còn gieo rắc ở những vùng đã đánh giá trước khi mổ.

Theo nghiên cứu, ung thư vú là bệnh lý có thể gieo rắc vào máu khi khối bướu có kích thước trên 1cm – 2cm. Do đó, các bác sĩ còn áp dụng thêm phương pháp kiểm soát điều trị toàn thân.

Thời điểm đầu chưa chẩn đoán ung thư vú di căn, điều trị phẫu thuật, tiếp đến là xạ trị phụ thuộc vào từng tình huống. Nếu khối u lớn, có di căn hạch, bác sĩ sẽ tiến hành xạ trị để kiểm soát tại chỗ.

Ngoài ra, bác sĩ có thể sử dụng phương pháp khác để phối hợp. Tiêu biểu như hóa trị hỗ trợ để khống chế những bệnh lý, những tế bào đã gieo rắc vào máu. Thậm chí, có thể tìm hiểu nguồn gốc, những yếu tố liên quan đến gen để phối hợp liệu pháp nhắm trúng đích.

Ở giai đoạn di căn, những liệu pháp điều trị toàn thân phải được điều trị trước tiên.

Bác sĩ CKII Ung bướu Lê Thị Thu Sương

Bệnh viện Đa khoa Hoàn Mỹ Sài Gòn