Dưới đây là một số điều về các triệu chứng, nguy cơ, cách phòng ngừa, … virus HPV mà bạn biết để bảo vệ bản thân khỏi nguy cơ nhiễm virus HPV.
1. Virus HPV rất phổ biến
Người ta ước tính rằng hơn 42,5 triệu người Mỹ đang sống chung với HPV, khiến nó trở thành bệnh nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục phổ biến nhất ở Hoa Kỳ.
Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC), khoảng 13 triệu người ở Hoa Kỳ bị nhiễm HPV mỗi năm.
Virus HPV phổ biến đến mức các nhà nghiên cứu tin rằng có tới 92% tất cả những người hoạt động tình dục sẽ nhiễm virus vào một thời điểm nào đó trong đời. Tuy nhiên, con số đã giảm đáng kể kể từ khi tiêm vắc-xin HPV được tiến hành.
2. Bạn có thể bị nhiễm HPV ngay cả khi không quan hệ tình dục
HPV lây truyền qua việc tiếp xúc tình dục da kề da. Khi quan hệ tình dục, bất kỳ khu vực nào không được bao cao su che phủ đều dễ bị phơi nhiễm virus HPV. Nhìn chung, quan hệ tình dục qua đường âm đạo và hậu môn là con đường phổ biến nhất khiến bạn bị lây nhiễm HPV. Mặc dù ít phổ biến hơn, virus HPV cũng có thể được truyền qua quan hệ tình dục bằng miệng.Virus HPV cũng có thể lây lan nếu tiếp xúc tay với cơ quan sinh dục đã nhiễm HPV.
Nguy cơ tăng lên nếu bạn có nhiều bạn tình hoặc quan hệ tình dục với một người đã có nhiều bạn tình.
3. Hầu hết các chủng HPV không gây ung thư
Có hơn 100 chủng virus HPV khác nhau. Một số là chủng "nguy cơ cao" có thể gây ung thư; những loại khác là loại "nguy cơ thấp" được biết là gây ra mụn cóc sinh dục.
Hai chủng được coi là có nguy cơ cao và nguy hiểm nhất là HPV 16 và 18, cùng gây ra 70% trường hợp ung thư cổ tử cung và tổn thương tiền ung thư cổ tử cung.
Có một quan niệm sai lầm phổ biến của nhiều người rằng mụn cóc sinh dục là dấu hiệu báo trước của bệnh ung thư. Các chủng HPV gây ra mụn cóc sinh dục có là chủng có nguy cơ thấp và được biết đến là không gây ung thư.
Tuy nhiên, mụn cóc ở bộ phận sinh dục không có nghĩa là bạn an toàn. Một người có thể bị nhiễm nhiều chủng HPV và sự xuất hiện của mụn cóc phải là dấu hiệu cảnh báo bạn có thể tiếp xúc với các chủng nguy cơ cao.
4. Có vắc-xin phòng ngừa nhưng chưa có thuốc chữa khỏi HPV
Các loại HPV gây ra mụn cóc sinh dục và ung thư cổ tử cung có thể được theo dõi và điều trị nhưng không thể chữa khỏi. Mụn cóc sinh dục có thể được loại bỏ nhưng không thể loại bỏ hoàn toàn và tiêu diệt được virus.
Mặc dù ngày nay có những loại vắc xin có thể làm giảm đáng kể nguy cơ nhiễm HPV ở người trẻ tuổi, nhưng vắc-xin này không thể vô hiệu hóa virus ở những người đã bị nhiễm.
5. Hầu hết những người bị nhiễm HPV không xuất hiện triệu chứng bệnh
Hầu hết các trường hợp nhiễm HPV đều không có dấu hiệu nhiễm bệnh. 90% trường hợp bị nhiễm sẽ tự hết trong vòng một vài năm.
Bạn chỉ có thể nhận biết được tình trạng bệnh khi có kiểm tra ung thư tử cung và cổ tử cung cho kết quả bất thường.
Với các chủng HPV nguy cơ cao, sau thời gian ủ bệnh có thể xuất hiện các triệu chứng trên âm đạo, dương vật, hậu môn, miệng, cổ họng như mụn cóc sinh dục (vết sưng nhỏ hoặc nhóm mụn), cục u, vết loét, sự tăng trưởng bất thường.
6. Vắc-xin HPV không bảo vệ chúng ta khỏi tất cả các chủng virus HPV
Gardasil-9 là vắc xin HPV được Cục quản lý thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) được phê duyệt. Vắc-xin này bảo vệ chống lại hai loại HPV nguy cơ thấp (loại 6 và 11) và bảy loại nguy cơ cao (loại 16, 18, 31, 33, 45, 52, và 58).
Gardasil-9 được chấp thuận để ngăn ngừa nhiều tình trạng bệnh do virus HPV gây ra như ung thư cổ tử cung, ung thư âm đạo, âm hộ, mục cóc sinh dục ở nữ giới và tiền ung thư hậu môn, ung thư mụn cóc sinh dục ở nam giới. Tuy nhiên, vắc-xin này kém hiệu quả hơn trong việc ngăn ngừa bệnh liên quan đến HPV ở những người đã tiếp xúc với một hoặc nhiều loại HPV. Mặc dù vắc-xin không điều trị các bệnh nhiễm trùng HPV hiện có hoặc các bệnh liên quan, nhưng vắc-xin bảo vệ chống lại các chủng virus HPV mà bạn chưa tiếp xúc.
7. Tiêm phòng HPV không chỉ dành cho trẻ em
Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC) khuyến nghị tiêm phòng HPV định kỳ cho tất cả thanh thiếu niên từ 11 đến 12 tuổi, mặc dù vắc xin này có thể được tiêm sớm nhất là khi trẻ 9 tuổi.
Đối với một số người trên 26 tuổi, việc tiêm phòng vẫn có thể có lợi. CDC khuyến nghị chủng ngừa HPV cho một số người lớn tuổi từ 27 đến 45 tuổi.
Những người bị suy giảm hệ miễn dịch (bao gồm cả những người bị nhiễm HIV) cũng nên được chủng ngừa bất kể tuổi tác. Vắc-xin phòng ngừa HPV cần tiêm 3 mũi.
8. Tiêm phòng không thay thế được hiệu quả của tầm soát ung thư
Theo CDC, tiêm phòng có thể ngăn ngừa hơn 90% các trường hợp ung thư do HPV gây ra, bao gồm ung thư hậu môn, âm đạo, cổ tử cung và âm hộ. Nhưng ngay cả khi bạn đã tiêm ngừa HPV, bạn vẫn nên cần làm tầm soát ung thư cổ tử cung.