Trái si rô là trái gì?
Si rô là một loài cây rừng, hiện được mang về làm cây si rô kiểng và hái trái. Cây si rô (tên khoa học Carissa carandas) có nguồn gốc ở Ấn Độ, Indonesia. Cây mọc trải dài ở các nước cận nhiệt đới và nhiệt đới vùng Nam Á như: Afghanistan, Ấn Độ, Pakistan, Sri Lanka… Cây cũng được phát hiện ở miền Nam Việt Nam.
Có lẽ từ cách người dân thường dùng trái si rô chín nấu với nước đường để làm nước si rô trái cây, nên cây có tên si rô.
Cây si rô ra hoa kết trái quanh năm, nhưng hoa nhiều nhất vào mùa xuân, kết trái rồi chín rộ vào mùa hè. Trái sum sê, mọc từng chùm. Trái tròn hình trứng, căng mọng rất đẹp, đường kính khoảng 1-2 cm, dài khoảng 1,5-2 cm.
Khi chưa chín trái si rô có màu xanh, sắp chín màu trắng, chín thì đỏ rồi tím đậm, có mùi thơm nhẹ. Trái hái xuống có thể lưu trữ được 3-4 ngày.
Trái si rô có công dụng gì?
Tất cả các bộ phận của cây si rô: lá, hoa, trái, hột, thân, rễ đều được dùng làm thuốc; với nhiều thành phần dinh dưỡng. Trong 100 g trái si rô có 42,5 kcal năng lượng, Canxi 21 mg, Photpho 28 mg, Vitamin A 1619 IU, Vitamin C 9-11 mg.
Riêng về thành phần hóa học, cho đến nay có 14 hợp chất đã được phân lập từ rễ, 40 hợp chất từ trái và 19 hợp chất từ lá. Các hợp chất này bao gồm phenolic, alkaloids, sterol, terpenoid, axit đơn giản, ester đơn giản, sesquiterpen, carboxylate, axit amin, glucose và galactose, sterol glycoside, phenolic lignin.
Nhờ những hoạt chất này nên trái si rô (kể cả trái xanh và trái chín) thường được dùng như thực phẩm. Trong khi nó có nhiều tính năng trị liệu quý báu mà ta lại không biết đến.
Trái xanh: Có vị chua. Thường được thay chanh để dầm nước mắm, hoặc trộn gỏi. Ở Ấn Độ,trái si rô được làm thành dưa chua.
Trái chín: Có vị chua ngọt, nấu với nước đường thành si rô có màu đỏ, mùi thơm, vị chua chua ngọt ngọt rất thích hợp để giải khát trong mùa nắng nóng. Trái chín cũng có thể ngâm rượu thành rượu sirô, làm mứt…
Riêng về làm thuốc thì ở Việt Nam, các sách dược liệu chưa đề cập nhiều về dược tính của cây si rô, có thể là do ít gặp, nên chỉ dùng theo kinh nghiệm dân gian để giải nhiệt, trị các bệnh do thiếu vitamin C, lợi sữa.
Ở Ấn Độ, các thầy lang đã sử dụng cây si rô làm thuốc cả ngàn năm qua. Riêng công dụng của trái si rô thì y học cổ truyền Ấn Độ Ayurveda có đề cập đến:
Trái xanh trị chứng đa tiết mật - tình trạng rối loạn của gan gây táo bón, nhức đầu, chán ăn và nôn mật. Dùng 2 trái (khoảng 4 g) mỗi ngày 1 lần.
Tiêu chảy: Dùng 1 trái.
Khát nước quá mức: Dùng 1 trái.
Trái chín trị chảy máu trong: Ăn 5 trái, mỗi ngày 1 lần.
Chảy máu nướu răng: Ăn 1-2 trái thường xuyên.
Chán ăn: Ăn trái si rô sẽ kích thích thèm ăn (có thể ép lấy nước uống khoảng 1 muỗng canh).
Rối loạn da: Giã đắp trị chàm, ngứa và một số bệnh da khác.
Sức khỏe tâm thần: Dùng trái si rô thường xuyên rất có lợi cho sức khỏe tâm thần.
Bổ tim: Dùng 1 muỗng canh nước ép trái cây tươi.
Tác dụng dược lý
Trên phương diện khoa học, thế giới đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về dược lý cho thấy trái si rô có nhiều tính năng tuyệt vời:
Tăng sức chịu đựng cơ thể: Hoạt chất Axit lanost-5-en-3β-ol-21-oic (lanostane triterpenoid) trong trái si rô làm tăng sức chịu đựng khi bơi, tăng khả năng chịu đựng của cơ thể khi thiếu oxy trong mô.
Trị sốt rét: Thử nghiệm cho thấy chiết xuất trái si rô chống lại ký sinh trùng sốt rét Plasmodium falciparum, mở ra triển vọng một cây thuốc có khả năng trị sốt rét đầy hứa hẹn.
Chống ung thư: Chiết xuất của trái si rô cho thấy khả năng chống ung thư phổi và ung thư biểu mô buồng trứng ở người.
Kháng vi-rút: Thử nghiệm cho thấy dịch chiết của trái si rô có tác dụng kháng vi-rút bại liệt HIV-1 và vi-rút herpes simplex
Chống táo bón và chống tiêu chảy: Chiết xuất trái si rô có tác dụng kích thích ruột gây tiêu chảy thông qua việc kích hoạt các thụ thể muscarinic và histaminergic; ngược lại, nó gây co thắt làm táo bón thông qua chất đối kháng Ca++.
Chống nôn: Thực nghiệm cũng xác nhận khả năng chống nôn của dịch chiết trái si rô.
Trị giun sán: Chiết xuất từ trái si rô còn xanh có tác dụng làm tê liệt rồi gây chết giun đất sau một thời gian.
Ai không nên ăn trái si rô?
Trái vừa hái xuống có mủ trắng gây kích ứng da, nên không được ăn ngay mà phải rửa qua cho hết mủ.
Không tốt cho người đau dạ dày vì trái xanh rất chua, còn trái chín không ngọt hẳn mà cũng vừa chua vừa ngọt.
Trái chín thì cầm máu, trong khi trái xanh lại tăng xuất huyết nên người mắc bệnh này không ăn trái si rô.