Các nhà nghiên cứu đã sử dụng dữ liệu từ Nghiên cứu Sức khỏe Phụ nữ Apple. Bằng cách xem thông tin về chu kỳ kinh nguyệt từ 71.341 người sử dụng iPhone và Apple Watch, họ phát hiện ra rằng các bé gái ngày nay có kinh nguyệt lần đầu vào khoảng 11,9 tuổi nếu tính sinh từ năm 2000 đến năm 2005. Trong khi đó những người sinh từ năm 1950 đến năm 1969 có kinh nguyệt lần đầu vào khoảng 12,5 tuổi.
Nghiên cứu này nhấn mạnh xu hướng giảm dần về độ tuổi có kinh nguyệt lần đầu qua các thế hệ. Điều này cho thấy những thay đổi tiềm ẩn trong các yếu tố ảnh hưởng đến thời điểm dậy thì.
Những người trong nghiên cứu được xác định là người châu Á, người da đen không phải gốc Tây Ban Nha hoặc đa chủng tộc cho biết họ có kinh nguyệt lần đầu tiên ở độ tuổi sớm hơn so với người da trắng. Tiến sĩ Zifan Wang, nhà nghiên cứu chính, lưu ý rằng các thế hệ trẻ hơn, từ năm 1950 đến năm 2005, bắt đầu có kinh nguyệt lần đầu tiên sớm hơn. Theo các phát hiện, phải mất nhiều thời gian hơn để chu kỳ kinh nguyệt trở nên đều đặn.
Tiến sĩ Wang đề cập rằng điều này rất quan trọng vì việc bắt đầu có kinh nguyệt sớm và không đều có thể chỉ ra các vấn đề sức khỏe tiềm ẩn sau này trong cuộc sống cần được chú ý. Ông cũng cho biết những thay đổi này có thể dẫn đến nhiều vấn đề sức khỏe và sự khác biệt hơn.
Các nhà nghiên cứu thực hiện nghiên cứu này cho biết tình trạng có kinh nguyệt sớm có thể xảy ra vì nhiều lý do.
Họ chỉ ra rằng tình trạng thừa cân là một yếu tố nguy cơ khiến trẻ dậy thì sớm. Với tình trạng trẻ em thừa cân ngày càng gia tăng ở Hoa Kỳ, họ đưa ra giả thuyết rằng béo phì có thể góp phần vào xu hướng trẻ em gái dậy thì sớm hơn.
Hơn nữa, các nhà nghiên cứu đã thảo luận về các yếu tố khác có thể ảnh hưởng đến thời điểm dậy thì, chẳng hạn như các yếu tố môi trường, thói quen ăn uống, căng thẳng và những trải nghiệm bất lợi thời thơ ấu. Những yếu tố này có thể đóng vai trò trong những thay đổi được quan sát thấy ở độ tuổi bắt đầu có kinh nguyệt và cần được điều tra thêm.
Các nhà nghiên cứu cũng phát hiện ra rằng cân nặng cơ thể tại thời điểm dậy thì đóng vai trò lớn trong xu hướng này.
Hiểu được tầm quan trọng của việc dậy thì sớm và mối liên hệ của nó với các vấn đề sức khỏe là rất quan trọng. Mặc dù xu hướng dậy thì sớm đã được ghi nhận ở Hoa Kỳ, nhưng dữ liệu về sự khác biệt dựa trên các yếu tố nhân khẩu học xã hội và chỉ số khối cơ thể (BMI) còn hạn chế. Ngoài ra, thời gian từ khi dậy thì đến khi chu kỳ kinh nguyệt đều đặn là một khía cạnh khác có ý nghĩa đối với sức khỏe mà chưa được nghiên cứu nhiều.
Kết quả cho thấy độ tuổi trung bình có kinh nguyệt giảm dần theo thời gian, với nhiều người có kinh nguyệt sớm hơn và ít người có kinh nguyệt đều đặn trong vòng 2 năm. Xu hướng có kinh nguyệt sớm hơn mạnh hơn ở một số nhóm dân tộc thiểu số và chủng tộc nhất định và những người có địa vị kinh tế xã hội thấp.
Phân tích thăm dò cho thấy BMI giải thích một phần đáng kể xu hướng thời gian ở độ tuổi có kinh nguyệt. Những phát hiện này làm nổi bật những yếu tố tiềm ẩn gây ra kết quả sức khỏe bất lợi và sự chênh lệch ở Hoa Kỳ liên quan đến thời điểm dậy thì.
Quan sát các dấu hiệu bất thường tuổi dậy thì
Đối với những bé gái đón chu kỳ kinh nguyệt đầu tiên, phụ huynh cần đồng hành theo dõi vì đặc điểm tuổi dậy thì con có nhiều bất ổn. Các con thay đổi về mặt tâm lý, nhận thức, có thể "khủng hoảng" trong giai đoạn bắt đầu xuất hiện chu kỳ kinh nguyệt.
Một bé gái mới có chu kỳ kinh nguyệt đầu tiên có thể gặp tình trạng rối loạn kinh nguyệt kéo dài trong vòng 1-2 năm vì hệ nội tiết chưa ổn định, dẫn đến các rối loạn kinh nguyệt giai đoạn đầu. Do đó, bé gái có thể gặp hiện tượng cường kinh, rong kinh, rong huyết, hoặc kinh thưa.
Ngày hành kinh đầu tiên, kinh nguyệt có thể ít, nhưng bé khó chịu đau bụng, ngày thứ 2- 3 máu kinh sẽ nhiều hơn, đến ngày 4-5 giảm. Chu kỳ kinh nguyệt thường kéo dài 3-5 ngày, một số trường hợp có thể đạt tối đa 7 ngày.
Trong mỗi chu kỳ, lượng máu kinh nguyệt mất đi khoảng 50 ml. Nếu lượng máu quá nhiều vượt trên 200 ml, trẻ phải liên tục thay băng vệ sinh, người mệt mỏi... là dấu hiệu bất thường, phụ huynh cần đưa bé đi bệnh viện kiểm tra. Tình trạng này có thể liên quan bệnh lý rối loạn đông máu, bệnh lý huyết học mà có thể trước đó chưa có biểu hiện.