Tối 1-4, bà N. đi uống cà phê với một số người bạn tại bàn B12 quán cà phê Koiland, ở phường Bình Thọ. Hơn 1 giờ sau, bà N ra về nhưng để quên ví trên ghế ngồi. Lúc sau, bà N quay lại tìm nhưng không thấy ví.
Trình báo tại cơ quan công an, bà N. cho biết, trong ví chứa tài sản ước tính khoảng 200 triệu đồng.
Trích xuất camera tại quán cho thấy, bé gái khoảng 10 tuổi ngồi bàn bên cạnh là người đã nhặt chiếc ví trên. Bé gái này đi cùng người đàn ông và 1 bé gái khác.
Trong quá trình xác minh, cơ quan công an đã phát đi thông báo truy tìm những người liên quan đến vụ mất ví. Đến chiều 25-5, cha của bé gái mới mang ví có chứa tài sản đến CATP Thủ Đức, TP. HCM giao nộp. Hiện đơn vị này đang làm thủ tục để bàn giao lại tài sản cho người mất.
Vụ việc trên không phải hi hữu. Thời gian qua có khá nhiều cá nhân nhặt được tài sản của người khác, nhưng lại không thông báo, không trả lại hoặc chỉ trả khi cơ quan chức năng xác minh, phát đi thông báo yêu cầu.
Phân tích hành vi trên dưới góc độ pháp lý, luật sư Lê Hồng Vân - Đoàn Luật sư Hà Nội cho rằng, khoản 1 Điều 230 BLDS 2015 quy định, khi nhặt được tài sản của người khác đánh rơi thì người nhặt nếu biết địa chỉ của người đó phải thông báo hoặc trả lại tài sản cho họ.
Trường hợp không biết địa chỉ của người đánh rơi, hoặc bỏ quên thì phải thông báo hoặc giao nộp cho UBND hoặc Công an cấp xã nơi gần nhất để thông báo công khai cho chủ sở hữu biết nhận lại.
Cũng theo luật sư Hồng Vân, sau 1 năm, kể từ ngày thông báo công khai về tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên mà không xác định được chủ sở hữu hoặc chủ sở hữu không đến nhận thì theo Điều 230 BLDS 2015, quyền sở hữu đối với tài sản này được xác định như sau:
Trường hợp tài sản bị đánh rơi, bỏ quên có giá trị nhỏ hơn hoặc bằng mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định (nhỏ hơn hoặc bằng 14.9 triệu đồng thì người nhặt được được xác lập quyền sở hữu đối với tài sản đó.
Nếu tài sản có giá trị lớn hơn mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định thì sau khi trừ chi phí bảo quản, người nhặt được được hưởng: Giá trị bằng mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định (14.9 triệu đồng) và 50% giá trị của phần vượt quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định, phần giá trị còn lại thuộc về Nhà nước…
Như vậy, theo quy định trên, người nhặt được tài sản phải trả lại cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp hoặc giao nộp cho cơ quan có thẩm quyền, theo yêu cầu của những người này.
Trường hợp các chủ thể trên có yêu cầu trả lại tài sản, nhưng người nhặt được cố tình chiếm giữ, không trả lại tài sản nhặt được thì có thể bị phạt hành chính hoặc xử lý hình sự - luật sư Hồng Vân nhấn mạnh.
Về xử lý hành chính, Điều 15 Nghị định 144/2021/NĐ-CP quy định, người nào chiếm giữ trái phép tài sản của người khác mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự thì bị phạt tiền từ 3 - 5 triệu đồng.
Nếu đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm, người chiếm giữ trái phép tài sản của người khác có thể bị xử lý hình sự theo Điều 176 BLHS 2015.
Theo đó, người nào cố tình không trả lại cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp hoặc không giao nộp cho cơ quan có trách nhiệm tài sản trị giá từ 10 -dưới 200 triệu đồng, hoặc dưới 10 triệu đồng nhưng tài sản là di vật, cổ vật… thì bị phạt tiền từ 10 - 50 triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 2 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm.
Phạm tội chiếm giữ tài sản trị giá 200 triệu đồng trở lên, hoặc bảo vật Quốc gia thì bị phạt tù từ 1 - 5 năm.