Cúng ông Công ông Táo là tục lệ truyền thống rất lâu đời của người dân Việt Nam. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của xã hội, người dân hiện đại dần hình thành hai khuyng hướng về việc chuẩn bị bàn thờ và cúng ông Công ông Táo. Đây là nhận định của tiến sĩ Văn hóa học Nguyễn Thị Hồng (Học viện Báo chí và Tuyên truyền).
Cụ thể, khuynh hướng thứ nhất đó là quá coi trọng chuyện cúng tế, đồ lễ cầu kỳ mà quên rằng sự thành tâm mới là quan trọng nhất chứ không phải là giá trị vật chất. Nhiều người làm lễ rất lớn, chi rất nhiều tiền nhưng thành tâm thì không có.
Khuynh hướng thứ hai đó là coi thường lễ nghi, chuẩn bị bàn thờ ông Táo sơ sài, viện lý do là công việc bận rộn để cúng tế qua loa.
Cả hai khuynh hướng này đều không đúng với lễ nghi truyền thống của dân tộc. Không cần cúng quá rườm rà nhưng phải chỉnh chu và cần nhất là sự tôn kính, chân thành. Muốn làm được điều này thì bất cứ ai chịu trách nhiệm chuẩn bị bàn thờ ông Táo cũng phải hiểu rõ nguồn gốc của tục lệ này của dân tộc.
Nguồn gốc của việc chuẩn bị bàn thờ ông Táo
Người Việt xưa quan niệm rằng gia đình nào cũng có một vị thần bếp, hay còn gọi là thần Táo quân trông nom cuộc sống. Thần Táo quân gồm ba vị định đoạt phước cho gia đình đó là một bà Táo và hai ông Táo (gồm Thổ Địa Long Mạch Tôn Thần, Ngũ Phương Ngũ Thổ Phúc Đức Chánh Thần và Đông Trù Tư Mệnh Táo Phủ Thần Quân). Họ chính là những vị thần mang lộc tài và quyết định phước đức ít hay nhiều của gia chủ dựa trên việc làm đúng đạo lý của gia chủ và những người trong gia đình.
Theo tục lệ, cứ đến 23 tháng Chạp Âm lịch hàng năm, Táo quân lại cưỡi cá chép bay về trời để trình báo mọi việc xảy ra trong gia đình với Ngọc Hoàng. Chính vì vậy, vào ngày này, các gia đình bắt đầu bày biện, chuẩn bị bàn thờ ông Táo, lau dọn sạch sẽ và bày mâm cúng để tiễn ông Công ông Táo về chầu trời.
Bàn thờ ông Táo cần chuẩn bị: mũ ông Công ba cỗ hay ba chiếc, trong đó có 2 mũ đàn ông và 1 mũ đàn bà. Mũ dành cho Táo ông có hai cánh chuồn, mũ Táo bà không có cánh chuồn. Những mũ này được trang trí với các gương nhỏ hình long lánh cùng giấy kim tuyến sặc sỡ.
Ngoài ra, tùy từng địa phương mà có quan niệm khác nhau về “phương tiện” để Táo quân về chầu trời. Ở miền Bắc, gia chủ cúng một con cá chép còn sống thả trong chậu nước nhằm ngụ ý cá biến thành Rồng đưa Táo quân về trời. Con cá chép sẽ được “phóng sinh” ra sông hoặc ao hồ lớn sau khi cúng. Ở miền Trung, người ta cúng một con ngựa giấy với yên, cương đầy đủ. Còn miền Nam chỉ cúng mũ, áo và đôi hia bằng giấy.
Ngoài các lễ vật chính này, tùy vào điều kiện kinh tế mà gia chủ có thể làm lễ mặn hoặc lễ ngọt. Đồ cúng Táo quân thường là các loại kẹo bánh có vị ngọt, hy vọng thần ăn sẽ không bẩm báo những chuyện nhỏ nhặt với Ngọc Hoàng. Cúng tế xong, gia chủ nên đem đồ ngọt bôi quanh miệng bếp, tượng trưng miệng thần dẻo ngọt không nói chuyện xấu.
Một lưu ý đó là người cúng trong lễ tiễn thần bếp nên là đàn ông - người trụ cột của gia đình. Sau khi tiễn Táo quân, gia chủ bắt đầu được quét dọn hay còn gọi là “quét tàn tinh”. Tuy nhiên, nhà nào năm đó có tang thì không được quét, kiêng khói bụi bay vào mắt người đã chết.
Quét dọn xong, gia chủ sẽ tiến hành “lau rửa”. Không chỉ có ý nghĩa làm vệ sinh môi trường xung quanh, nó còn có ý nghĩa tạo sự thanh tịnh trong thâm tâm, phản tỉnh những sai lầm mắc phải trong cả năm.