Theo Science Alert, CMV thuộc cùng một họ virus với bệnh lở miệng và thủy đậu, do đó chúng sống trong cơ thể mọi người suốt đời. Hầu hết trẻ em và người lớn đều bị nhiễm trùng ban đầu rất nhẹ, thậm chí không có triệu chứng. Hơn nữa, một hệ thống miễn dịch khỏe mạnh thường có thể kiểm soát CMV nên mọi người không biết virus này đang sống trong cơ thể.
Bà Laura Gibson, chuyên gia về bệnh truyền nhiễm và miễn dịch học, cho biết bà đã tập trung nghiên cứu câu hỏi tại sao việc hiểu biết về CMV lại quan trọng đối với mọi người. Một lý do chính là CMV có thể truyền từ mẹ sang thai nhi trong thai kỳ.
CMV bẩm sinh (hay cCMV) là bệnh nhiễm trùng phổ biến nhất trước khi sinh. Nó là nguyên nhân truyền nhiễm hàng đầu gây dị tật bẩm sinh. Hàng năm, nhiều trẻ em bị ảnh hưởng bởi cCMV với một số bệnh quen thuộc như hội chứng Down và hội chứng rượu bào thai (FAS).
So với các giai đoạn sau của thai kỳ, nhiễm CMV trong 3 tháng đầu có nguy cơ thai chết lưu hoặc bị ảnh hưởng nghiêm trọng nhất khi hệ thống miễn dịch và các cơ quan như não đang phát triển.
CMV hiếm khi được chẩn đoán sớm trong thai kỳ
Sàng lọc rubella, HIV và giang mai là thói quen chăm sóc trước khi sinh sớm ở Mỹ. Tuy nhiên, nếu CMV có thể lây nhiễm cho thai nhi và gây dị tật bẩm sinh, tại sao những người mang thai không được xét nghiệm và điều trị loại virus này?
Nguyên nhân là sàng lọc CMV trước khi sinh không phải tiêu chuẩn chăm sóc do một số hạn chế của phương pháp xét nghiệm hiện tại. Xét nghiệm có thể cung cấp thông tin về việc cha mẹ có nhiễm CMV hay không, nhưng không thể dự đoán đầy đủ nguy cơ lây truyền sang thai nhi hoặc các triệu chứng nghiêm trọng.
Ngoài ra, sàng lọc trước sinh cho một người khỏe mạnh với một thai kỳ bình thường đa phần không cung cấp quá nhiều thông tin hữu ích. Bởi vì bất kỳ ai cũng có thể sinh con bị nhiễm cCMV bất kể họ đã xét nghiệm dương tính hay âm tính với nó trước hoặc sớm hơn trong thai kỳ. Xét nghiệm CMV có thể hữu ích cho thai phụ đang bị bệnh cấp tính, chẳng hạn như sốt và mệt mỏi kéo dài, những người có kết quả siêu âm thai nhi bất thường.
Ngay cả khi có các xét nghiệm chính xác hơn, vẫn không có biện pháp can thiệp y tế nào được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Mỹ (FDA) phê duyệt để giảm nguy cơ nhiễm CMV ở thai nhi.
Các kháng thể chống lại CMV dường như làm giảm khả năng lây truyền cho thai nhi khi được đưa vào thời điểm thụ thai hoặc trong 3 tháng đầu tiên, nhưng CMV hiếm khi được chẩn đoán sớm trong thai kỳ.
Sàng lọc CMV cho trẻ sơ sinh
Hiện tại, một số trung tâm sinh sản đã cung cấp dịch vụ xét nghiệm CMV sớm. Tuy nhiên, hầu hết tiểu bang của Mỹ không bắt buộc xét nghiệm CMV cho trẻ sơ sinh. Nhóm của bà Gibson đã khảo sát 33 bệnh viện ở Massachusetts từ cuối năm 2020 đến đầu năm 2021 và nhận thấy chưa đến một nửa số lượng thai phụ thường xuyên sàng lọc trẻ sơ sinh để phát hiện nhiễm cCMV.
Do đó, tiêu chuẩn hóa giáo dục sức khỏe cộng đồng, hướng dẫn sàng lọc CMV có thể giúp giảm tỷ lệ mắc và ảnh hưởng của bệnh cCMV đối với trẻ em.
Cho đến nay, 17 tiểu bang ở Mỹ đã ban hành luật yêu cầu giáo dục cCMV hoặc sàng lọc có mục tiêu đối với trẻ sơ sinh đáp ứng các tiêu chí nhất định. Mặt khác, việc thiết kế, tài trợ và thực hiện một chương trình sàng lọc trẻ sơ sinh mới rất phức tạp và tốn thời gian.
Hầu hết trẻ sơ sinh nhiễm cCMV đều có thể chất ổn định khi mới sinh và phát triển bình thường trong suốt cuộc đời. Điều này khiến một số người đặt câu hỏi về lợi ích của việc sàng lọc CMV đối với những trẻ đó.
Tuy nhiên, trẻ sơ sinh vẫn có thể tồn tại những bất thường không nhìn thấy được khi sinh và không có cách nào để dự đoán liệu trẻ có gặp các vấn đề sức khỏe hay không.
Vì vậy, nếu không sàng lọc CMV cho tất cả trẻ sơ sinh, những trẻ có vẻ ngoài bình thường khi sinh sẽ không được đánh giá đầy đủ, cân nhắc điều trị hoặc theo dõi các tác động phát triển sau này, chẳng hạn như mất thính lực.
Tuyên truyền nâng cao nhận thức về CMV
Việc giảm tỷ lệ nhiễm cCMV khó có thể đạt hiệu quả nếu không nâng cao nhận thức. Hầu hết mọi người chưa từng nghe nói về CMV hoặc không biết làm gì để giảm nguy cơ nhiễm CMV khi mang thai.
Các bệnh nhiễm trùng như CMV dễ dàng lây lan giữa trẻ em trong môi trường nhà trẻ như chơi theo nhóm, bữa ăn và thay tã. Kể cả khi mang CMV trong nước bọt và nước tiểu nhiều tuần hoặc nhiều tháng sau khi nhiễm bệnh, trẻ vẫn trông rất khỏe mạnh.
Vì vậy, khi một người chăm sóc thai phụ tiếp xúc với những chất dịch cơ thể đó, họ cũng có thể bị nhiễm bệnh.
Đối với những người đang mang thai, các hành vi đơn giản như hôn lên đầu trẻ thay vì hôn lên môi, không dùng chung thức ăn, đồ dùng và rửa tay thường xuyên có thể làm giảm đáng kể nguy cơ nhiễm CMV.