1. Ung thư cổ tử cung bắt đầu từ đâu?
Cổ tử cung nối thân tử cung với âm đạo, được bao phủ bởi hai loại tế bào khác nhau là tế bào tuyến và tế bào vảy. Nơi mà hai loại tế bào này gặp nhau trong cổ tử cung được gọi là vùng biến đổi. Hầu hết các bệnh ung thư cổ tử cung bắt đầu từ các tế bào trong vùng biến đổi.

Các tế bào trong vùng biến đổi không đột ngột biến đổi thành ung thư mà các tế bào bình thường của cổ tử cung đầu tiên phát triển dần những thay đổi bất thường được gọi là tiền ung thư.

Mặc dù ung thư cổ tử cung bắt đầu từ các tế bào có những thay đổi tiền ung thư nhưng chỉ một số phụ nữ tiền ung thư cổ tử cung mới phát triển thành ung thư thực sự. Những thay đổi tiền ung thư có thể được phát hiện bằng xét nghiệm và được điều trị để ngăn ngừa ung thư phát triển.

Hình ảnh ung thư cổ tử cung.

2. Các loại ung thư cổ tử cung
Các loại ung thư cổ tử cung chính là ung thư biểu mô tế bào vảy và ung thư biểu mô tuyến. Hầu hết ung thư cổ tử cung là ung thư biểu mô tế bào vảy. Ung thư biểu mô tế bào vảy thường bắt đầu ở vùng biến đổi.

Ung thư biểu mô tuyến là loại ung thư phát triển từ các tế bào tuyến. Ung thư biểu mô tuyến cổ tử cung phát triển từ các tế bào tuyến sản xuất chất nhờn của nội tiết.

Ít phổ biến hơn, ung thư cổ tử cung có đặc điểm của cả ung thư biểu mô tế bào vảy và ung thư biểu mô tuyến. Chúng được gọi là ung thư biểu mô tuyến hoặc ung thư biểu mô hỗn hợp .

Mặc dù hầu hết tất cả các loại ung thư cổ tử cung đều là ung thư biểu mô tế bào vảy hoặc ung thư biểu mô tuyến, các loại ung thư khác cũng có thể phát triển ở cổ tử cung như u ác tính, ung thư hạch…

3. Các yếu tố nguy cơ gây ung thư cổ tử cung
Có một số yếu tố nguy cơ có thể làm tăng khả năng phát triển ung thư cổ tử cung. Trong đó có những yếu tố không thể kiểm soát được như tuổi tác (tuổi càng cao thì nguy cơ mắc bệnh càng tăng, đặc biệt là trên 35 tuổi) và tiền sử gia đình (có mẹ hoặc chị gái bị ung thư cổ tử cung thì khả năng mắc bệnh sẽ cao hơn so với trường hợp không có ai trong gia đình mắc bệnh này). Tuy nhiên, cũng có những yếu tố có thể kiểm soát, phòng ngừa được như hút thuốc, quan hệ tình dục hoặc nhiễm virus u nhú ở người.

Các yếu tố nguy cơ ung thư cổ tử cung có thể kiểm soát, phòng ngừa được:
- Nhiễm virus u nhú ở người (HPV)

Nhiễm virus u nhú ở người (HPV) là yếu tố nguy cơ quan trọng nhất của ung thư cổ tử cung. HPV là một nhóm gồm hơn 150 loại virus có liên quan. Một số trong chúng gây ra một loại phát triển được gọi là u nhú, thường được gọi là mụn cóc.

HPV có thể lây nhiễm sang các tế bào trên bề mặt da và các tế bào lót bên trong bộ phận sinh dục, hậu môn, miệng và cổ họng, nhưng không lây nhiễm vào máu hoặc các cơ quan nội tạng như tim hoặc phổi.

HPV có thể lây lan từ người này sang người khác khi tiếp xúc da với da, đặc biệt là lây lan là thông qua quan hệ tình dục, bao gồm cả quan hệ tình dục qua đường âm đạo, hậu môn và thậm chí cả đường miệng.

Một số loại HPV có liên quan mật thiết đến các bệnh ung thư, bao gồm ung thư cổ tử cung, âm hộ và âm đạo ở phụ nữ, ung thư dương vật ở nam giới và ung thư hậu môn, miệng và cổ họng ở cả nam giới và phụ nữ.

Mặc dù hiện nay vẫn chưa có cách chữa khỏi nhiễm HPV, nhưng vẫn có những cách để điều trị mụn cóc và sự phát triển tế bào bất thường mà HPV gây ra. Ngoài ra, tiêm phòng vaccine sẽ giúp ngăn ngừa nhiễm trùng bởi một số loại HPV và một số bệnh ung thư liên quan đến các loại này.

Virus HPV có thể gây ung thư cổ tử cung.

- Hút thuốc

Khi một người hút thuốc, họ và những người xung quanh tiếp xúc với nhiều hóa chất gây ung thư sẽ ảnh hưởng đến các cơ quan khác ngoài phổi. Những chất độc hại này được hấp thụ qua phổi và được đưa vào máu đi khắp cơ thể.

Phụ nữ hút thuốc có nguy cơ mắc ung thư cổ tử cung cao gấp đôi so với những người không hút thuốc. Nghiên cứu cho thấy, các sản phẩm phụ của thuốc lá đã được tìm thấy trong chất nhầy cổ tử cung của những phụ nữ hút thuốc.

Các nhà nghiên cứu tin rằng những chất này làm hỏng DNA của các tế bào cổ tử cung và có thể góp phần vào sự phát triển của ung thư cổ tử cung. Hút thuốc cũng làm cho hệ thống miễn dịch kém hiệu quả hơn trong việc chống lại nhiễm trùng HPV.

- Người có hệ miễn dịch suy yếu

Virus gây suy giảm miễn dịch ở người (HIV), bệnh AIDS làm suy yếu hệ thống miễn dịch và khiến chúng ta có nguy cơ nhiễm HPV cao hơn.

Hệ thống miễn dịch rất quan trọng trong việc tiêu diệt các tế bào ung thư và làm chậm sự phát triển và lây lan. Ở phụ nữ nhiễm HIV, tiền ung thư cổ tử cung có thể phát triển thành ung thư xâm lấn nhanh hơn bình thường.

Một nhóm phụ nữ khác có nguy cơ mắc ung thư cổ tử cung là những người dùng thuốc để ngăn chặn phản ứng miễn dịch như những người đang điều trị bệnh tự miễn dịch hoặc những người đã được cấy ghép nội tạng.

- Nhiễm Chlamydia

Chlamydia là một loại vi khuẩn tương đối phổ biến có thể lây nhiễm sang hệ thống sinh sản qua quan hệ tình dục. Phụ nữ bị nhiễm chlamydia thường không có triệu chứng và họ có thể không biết rằng mình bị nhiễm bệnh trừ khi họ được xét nghiệm khi khám phụ khoa. Nhiễm khuẩn Chlamydia có thể gây viêm vùng chậu, dẫn đến vô sinh.

Một số nghiên cứu cho thấy, nguy cơ ung thư cổ tử cung cao hơn ở những phụ nữ có xét nghiệm máu và chất nhầy cổ tử cung cho thấy bằng chứng nhiễm khuẩn Chlamydia trong quá khứ hoặc hiện tại. Vi khuẩn Chlamydia có thể giúp HPV phát triển và sống trong cổ tử cung, điều này có thể làm tăng nguy cơ ung thư cổ tử cung.

Tiêm phòng HPV là biện pháp ngăn ngừa ung thư cổ tử cung.

4. Phòng ung thư cổ tử cung như thế nào?
Hai biện pháp quan trọng nhất mà bạn có thể làm để ngăn ngừa ung thư cổ tử cung hiệu quả là tiêm phòng HPV và tầm soát ung thư cổ tử cung thường xuyên để phát hiện sớm những tổn thương tiền ung thư và điều trị kịp thời.

Vaccine phòng HPV hoạt động tốt nhất nếu được tiêm trước khi tiếp xúc với HPV. Vì vậy, Tổ chức Y tế thế giới (WHO) khuyến cáo nên tiêm phòng cho các bé gái từ 9-14 tuổi, khi hầu hết chưa bắt đầu hoạt động tình dục. Cần tiêm đầy đủ 3 mũi theo đúng lịch để đảm bảo hiệu lực của vaccine.

Cần lưu ý thực hiện quan hệ tình dục an toàn. Không nên quan hệ tình dục quá sớm, quan hệ với nhiều bạn tình. Giữ vệ sinh âm đạo, nhất là sau khi sinh hoạt tình dục. Nếu có viêm nhiễm phụ khoa cần đi khám và điều trị dứt điểm.