Mấy ngày nay, dư luận đang rất quan tâm những thông tin liên quan đến vụ án người phụ nữ rơi lầu tử vong trong trạng thái không nguyên vẹn ở một chung cư tại TP.HCM. Qua điều tra ban đầu cho thấy người phụ nữ này có tiền sử bệnh trầm cảm. Theo người em gái đang sống cùng, người phụ nữ này bị trầm cảm và từng điều trị tại nhiều bệnh viện tâm thần. Thời gian gần đây, chị có biểu hiện chán nản, đã nhiều lần chị nói chán sống và muốn tự tử.

Hình ảnh phong toả hiện trường vụ án. Ảnh Vietnamnet

Tuy vẫn chưa có kết luận chính thức từ phía cơ quan chức năng nhưng rất có thể bệnh trầm cảm chính là ngọn nguồn của kết quả đau lòng này.

Trầm cảm là căn bệnh đã có từ lâu, tuy nhiên trong xã hội hiện đại với nhiều áp lực thì ngày càng có nhiều người bị trầm cảm có xu hướng muốn tự sát.

Trầm cảm là bệnh gì?

Đây là căn bệnh thuộc tâm thần học đặc trưng bởi sự rối loạn khí sắc. Bệnh do hoạt động của não bộ bị rối loạn gây nên do một yếu tố tâm lý nào nào tạo thành những biến đổi bất thường trong suy nghĩ hành vi tác phong.

Bệnh trầm cảm thường gặp nhiều ở phụ nữ. Ảnh minh họa: Internet

Thông thường ở nữ giới dễ bị trầm cảm nhiều hơn nam giới (2 nữ/ 1 nam) và xảy ra ở nhiều lứa tuổi đặc biệt trong độ tuổi trưởng thành.

Ngày nay tỉ lệ mắc bệnh này ngày một tăng, theo tổ chức Y tế Thế giới ước tính mỗi năm có khoảng 850000 chết do hành vi tự sát do bệnh trầm cảm, là một bệnh phổ biến ở trên toàn cầu.

Trầm cảm là nguyên nhân của hơn 50% trường hợp tự sát, trầm cảm do nguyên nhân khác nhau nhưng gặp tỉ lệ cao ở các đối tượng thất nghiệp, phá sản, ly hôn,... Người mắc trầm cảm nặng có xu hướng muốn tự sát.

Nguyên nhân gây ra trầm cảm nặng

Trầm cảm vừa và nhẹ, nếu không được điều trị kịp thời có nguy cơ phát triển thành trầm cảm nặng. Đây là nguyên nhân chính và trực tiếp nhất.

Ảnh minh họa: Internet
  •  Yếu tố di truyền: Nếu bố mẹ mắc bệnh trầm cảm thì nguy cơ mắc bệnh ở con cái cũng cao hơn người bình thường.
  • Giới tính: Theo các nghiên cứu, tỷ lệ phụ nữ mắc bệnh trầm cảm cao gấp 2 lần so với nam giới. Nguyên nhân là do phụ nữ thường phải gánh vác nhiều hơn như công việc xã hội, gia đình, áp lực dồn nén, con cái không có thời gian chia sẻ, cũng như thời gian chăm sóc bản thân,...
  • Stress kéo dài: Căng thẳng và stress kéo dài sẽ làm mất cân bằng tâm lý, gặp phải sang chấn về tâm lý như mất người thân hay gặp phải những chuyện quá shock cũng là nguyên nhân gây ra căn bệnh này.
  • Do ảnh hưởng bởi một số bệnh: Chấn thương sọ não, tai biến mạch máu não, u não, sa sút trí tuệ,...cũng dễ mắc bệnh trầm cảm.
  • Mất ngủ thường xuyên: Khi đã bị bệnh trầm cảm đến giai đoạn nặng cần phải được điều trị bệnh để tránh những hậu quả xấu xảy ra.

Dấu hiệu và nguy cơ tự sát

Hầu hết bệnh nhân trầm cảm chủ yếu đều có ý nghĩ về cái chết, nặng hơn là có ý định hoặc hành vi tự sát.

Lúc đầu bệnh nhân nghĩ rằng bệnh nặng thế này (mất ngủ, chán ăn, sụt cân, mệt mỏi...) thì chết mất. Dần dần, bệnh nhân cho rằng chết đi cho đỡ đau khổ. Các ý nghĩ này biến thành niềm tin rằng những người xung quanh có thể sẽ khá hơn nếu bệnh nhân chết, từ đó dần dần hình thành ý nghĩ, hành vi tự sát.

Hầu hết bệnh nhân trầm cảm chủ yếu đều có ý nghĩ về cái chết, nặng hơn là có ý định hoặc hành vi tự sát. Ảnh minh họa: Internet

Mật độ và cường độ của ý định tự sát có thể rất khác nhau. Một số bệnh nhân tự sát ít nghiêm trọng có thể ý định tự sát mới chỉ ập đến (chỉ 1 - 2 phút trước đó) mà trước đó bệnh nhân chưa hề nghĩ đến cái chết. Trường hợp nặng hơn, ý nghĩ tự sát tái diễn (1 hoặc 2 lần/tuần), họ có thể cân nhắc kỹ càng trước khi hành động.

Bệnh nhân có ý định tự sát có thể chuẩn bị vật chất (vũ khí, dao, dây thừng, chất độc, thuốc an thần, thuốc ngủ, thuốc trừ sâu, thuốc diệt chuột,...) để sử dụng cho hành vi tự sát, địa điểm và thời gian mà họ chỉ có một mình để tự sát thành công.

Một số bệnh nhân có thể lập kế hoạch thực tế kỹ càng để đảm bảo tự sát sẽ kết thúc bằng cái chết. Có nhiều bệnh nhân thậm chí còn viết thư tuyệt mệnh, thông báo cho bạn bè hoặc người thân về ý định tự sát của họ. Các hành vi này phối hợp với hành vi tự sát được sử dụng để xác định các bệnh nhân có nguy cơ tự sát cao nhằm có biện pháp xử lý.

Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng không thể dự đoán một cách chính xác được bệnh nhân trầm cảm có cố gắng tự sát hay không và khi nào tự sát.

Động cơ tự sát của bệnh nhân là mong muốn cao độ chấm dứt một trạng thái cảm xúc đau khổ, sự tra tấn đang hành hạ cơ thể bệnh nhân trầm cảm. Về mặt lâm sàng, các bệnh nhân trầm cảm có hành vi tự sát và không có hành vi tự sát có triệu chứng giống hệt nhau. Điểm duy nhất khác biệt ở 2 nhóm bệnh nhân này là những bệnh nhân có ý định tự sát thường có các hành vi tự sát trong tiền sử.

Việc hỗ trợ điều trị bệnh trầm cảm nặng cần thời gian và kết hợp với rất nhiều các phương pháp như dùng thuốc, liệu pháp tâm lý, vận động, chế độ ăn uống.

Nguy cơ tự sát cao nhất ở bệnh nhân trầm cảm nặng, nhưng hoàn toàn có thể gặp ở bệnh nhân bị trầm cảm ở mức độ nhẹ hoặc vừa. Hơn nữa, bệnh nhân trầm cảm nặng có nguy cơ tự sát thường là do trầm cảm ở thể nhẹ hơn, có nhiều dấu hiệu bệnh nhưng lại không được điều trị kịp thời.

Trầm cảm sau sinh ở phụ nữ đang ngày càng phổ biến. Ảnh minh họa: Internet

Do đó, nếu bệnh nhân có biểu hiện của bệnh trầm cảm, cần đưa người bệnh đi khám ngay để xác định được mức độ bệnh cũng như phương án xử lý. Các chuyên gia tâm lý, tâm thần sẽ sử dụng nhiều biện pháp đánh giá trắc nghiệm tâm lý, liệu pháp tâm lý kết hợp với một số xét nghiệm cận lâm sàng

Trước đây cũng có rất nhiều trường hợp phụ nữ sau sinh bị trầm cảm nên có những hành động tiêu cực dẫn đến cái kết đau lòng như mẹ trầm cảm sau sinh giết con, mẹ trầm cảm nên ôm con nhỏ tự tử,...

Nhưng ở thời điểm hiện tại, ở Việt Nam vấn đề về bệnh trầm cảm thường ít được quan tâm, người bệnh thường ngại chia sẻ hoặc điều trị đúng cách nên vẫn còn đó những sự việc đau lòng. Mong rằng qua nhiều vụ việc trên, người Việt nên quan tâm và có cái nhìn đúng hơn về căn bệnh này.