Phối hợp hai loại vắc xin COVID-19 có thể vẫn hiệu quả và an toàn - Ảnh: scitechdaily.com

Công bố ngày 19-5 trên tạp chí Nature, nghiên cứu tiến hành ở Tây Ban Nha khẳng định tiêm một liều vắc xin COVID-19 của AstraZeneca kết hợp 1 liều vắc xin COVID-19 Pfizer–BioNTech tạo ra phản ứng miễn dịch mạnh với virus SARS-CoV-2.

Đây là thử nghiệm đầu tiên về phối hợp vắc xin và cho thấy lợi ích của việc này. Trước đó, Anh cũng có một báo cáo tương tự và khẳng định phối hợp 2 loại vắc xin là an toàn, nhưng tỉ lệ người bị các tác dụng phụ sau tiêm như sốt, cao hơn so với những người tiêm 2 liều cùng loại.

Điều này liên quan đến thực tế là nhiều nước châu Âu đã khuyến cáo một số hoặc toàn bộ những ai đã tiêm liều đầu với vắc xin của AstraZeneca nên tiêm liều thứ hai với vắc xin khác.

Zhou Xing, nhà miễn dịch học của Đại học McMaster ở Hamilton (Canada) bình luận về kết quả nghiên cứu: "Dường như vắc xin Pfizer đã tăng cường phản ứng kháng thể một cách đáng kể sau khi tiêm một liều vắc xin AstraZeneca".

Theo các số liệu ban đầu, phản ứng kháng thể ở những người được tiêm phối hợp hai loại vắc xin thậm chí còn mạnh hơn so với những người nhận 2 liều vắc xin của AstraZeneca. Tuy nhiên, hiệu quả này không rõ khi so với phản ứng tương tự ở những người nhận hai liều vắc xin của Pfizer–BioNTech vì vắc xin này có xu hướng kích hoạt phản ứng kháng thể đặc biệt mạnh sau liều thứ hai.

Dễ cho khâu hậu cần

Phối hợp vắc xin COVID-19 không chỉ là sử dụng vắc xin do hai đơn vị khác nhau sản xuất mà còn là phối hợp hai cách kích hoạt phản ứng miễn dịch khác nhau, do công nghệ bào chế vắc xin khác nhau.

Vắc xin của Pfizer và Moderna chứa một đoạn nhỏ mRNA, vật liệu di truyền chứa công thức tạo ra một vùng của protein gai của virus SARS-CoV-2. mRNA trượt vào các tế bào của người được tiêm chủng, nơi nó chỉ đạo sản xuất ra protein của virus. Sau đó, hệ miễn dịch của người đó nhận ra protein gai ngoại lai và tạo ra các kháng thể chống lại nó.

Đa số các loại vắc xin COVID-19 còn lại sử dụng công nghệ viral vector. Các nhà nghiên cứu sử dụng một loại virus an toàn (chẳng hạn virus gây bệnh cúm) và điều chỉnh với các thành phần cụ thể của virus gây bệnh (thường là protein) để kích hoạt phản ứng miễn dịch của cơ thể.

Virus an toàn đóng vai trò là một vector để đưa protein của virus gây bệnh vào cơ thể. Protein này sẽ kích hoạt phản ứng miễn dịch.

Lợi ích của việc phối hợp này còn được thấy ở khâu hậu cần. Ví dụ, khi nguồn cung của một loại vắc xin tạm gián đoạn, người dân có thể đổi sang dùng loại vắc xin khác mà không cần phải lo lắng.

Nếu phản ứng miễn dịch mạnh hơn, kéo dài hơn khi phối hợp 2 loại vắc xin như các nhà nghiên cứu hi vọng, đây còn là cách tốt hơn để bảo vệ người dân trước các biến thể mới đang lây lan mạnh gần đây.

Tuy nhiên, vấn đề sẽ càng phức tạp hơn với mũi tiêm nhắc lại (mũi thứ ba) vì vắc xin AstraZeneca có xu hướng kém hiệu quả hơn, trong khi tác dụng phụ khi tiêm nhắc lại của vắc xin Pfizer–BioNTech lại có xu hướng mạnh hơn.

Các nhà nghiên cứu hi vọng họ có thể phối hợp các loại vắc xin COVID-19 của nhiều hãng khác nhau. Phối hợp vắc xin không phải là sáng kiến mới mà nó đã được áp dụng phổ biến với nhiều loại bệnh dịch khác như Ebola.

Hiện nay, Cơ quan phòng ngừa và kiểm soát dịch bệnh ở Mỹ mới cho phép phối hợp vắc xin của Pfizer và Moderna với nhau và chỉ áp dụng cho các trường hợp ngoại lệ, chẳng hạn thiếu vắc xin hoặc khi người được tiêm không nhớ trước đây mình đã tiêm loại nào. Hai loại này sử dụng chung một công nghệ.

Canada cho cho phép phối hợp vắc xin nếu nguồn cung bị hạn chế, khi người được tiêm khó có thể được tiêm liều thứ hai cùng loại với liều thứ nhất, hoặc nếu họ đã tiêm mũi đầu với vắc xin của AstraZeneca.

Trong khi đó, các nước châu Âu khuyến cáo nên đợi nghiên cứu sâu hơn trước khi áp dụng.