Chữ Hiếu của thanh quan Bao Công

Bao Công, có tên là Bao Chửng, tự Hy Nhân, người Hợp Phì, Lô Châu. Cha ông là Bao Nghi, làm quan Đại phu trong triều, sau này chết được truy phong làm Hình bộ Thị lang. Bao Công ngay từ khi còn bé đã nổi tiếng là người con hiếu thảo, tính tình đôn hậu, chính trực.

Năm Thiên Thánh thứ 5 đời Tống Nhân Tông (năm 1027), ông đỗ Tiến sỹ ở tuổi 28. Đầu tiên ông được bổ nhiệm làm quan Bình sự của Đại Lý Tự, sau đó được bổ nhiệm làm tri huyện Kiến Xương. Khi đó cha mẹ ông tuổi tác đã cao, không muốn cùng ông đi xa nơi đất khách quê người. Không do dự, ông từ quan về nhà chăm sóc cha mẹgià. Lòng hiếu thuận của ông được văn võ bá quan cả triều đình khen ngợi.

Mấy năm sau, cha mẹ ông lần lượt qua đời. Hết thời gian mãn tang, ông vẫn ở nhà lo thờ cúng cha mẹ. Sau này được bà con làng xóm một mực khuyên nhủ, ông mới quay trở lại đường quan lộ của mình.

 
Lòng đại hiếu của bậc Thánh nhân Thuấn

Vua Thuấn khi còn nhỏ, cha ông vừa mù vừa điếc, lại vô cùng nóng nảy. Mẹ ông mất sớm, cha ông lấy vợ kế sinh được em trai kế là Tượng. Mẹ kế là người nhỏ nhen ích kỷ, thường nói xấu Thuấn với cha, nên Thuấn thường bị cha đánh mắng.

Nhưng Thuấn là người con đại hiếu, vẫn ân cần hiếu thuận với cha mẹ, nhường nhịn em. Tuy nhiên, mẹ kế vẫn sợ Thuấn được kế thừa một nửa gia nghiệp, nên nghĩ kế hãm hại Thuấn hết lần này đến lần khác.

Thuấn lớn lên trong mắng chửi đánh đập của cha, trong ghen ghét, hãm hại của mẹ kế và em trai, nhưng Thuấn vẫn không hề có chút tâm oán hận họ, cũng chẳng để tâm đến lời nói hành vi độc ác của họ đối với mình.

Năm Thuấn 20 tuổi, danh tiếng hiếu thuận của ông đã vươn xa khắp cõi. Ông được quan địa phương tiến cử với vua Nghiêu. Vua rất cảm động trước tấm lòng hiếu thuận của Thuấn, đã gả con gái cho Thuấn.

Đức hạnh hiếu thảo của Thuấn cuối cùng cũng đã khiến mẹ kế và em trai cảm động, cả nhà hòa hợp vui vẻ. Sau này Thuấn được vua Nghiêu nhường ngôi trị vì thiên hạ, và trở thành một Thánh đế nổi tiếng trong lịch sử, gây dựng thái bình thịnh trị đời Nghiêu – Thuấn.

Chữ Hiếu của thường dân

Khổng Tử giảng như sau: “Dụng Đạo của Trời, phân chia cái lợi của đất, cẩn thận bản thân, tiết kiệm tiêu dùng, để phụng dưỡng cha mẹ, đó là cái hiếu của thứ dân”.

Điều này có nghĩa là những người dân thường, khi làm việc cần phải hợp với lẽ Trời. Con người phải giữ tròn bổn phận của mình, không được sinh lòng tham và làm những việc ngoài phận sự (Nói một cách thông tục là an phận thủ thường, không trộm cắp hay làm những việc phạm pháp). Họ phải cần kiệm giữ gìn nếp nhà, hiếu kính và phụng dưỡng cha mẹ, đây là chữ Hiếu của bậc thường dân. Tức là, bậc thường dân coi việc an lạc của bản thân, gia đình và việc phụng dưỡng cha mẹ làm đạo Hiếu.

Chữ Hiếu của người quân tử

Chữ Hiếu của người quân tử là đại hiếu. Khổng Tử nói: “Giáo hóa của bậc quân tử là chữ Hiếu, không phải đến từng nhà hàng ngày nói về Hiếu. Giáo hóa bằng chữ Hiếu, do đó kính trọng các bậc cha mẹ trong thiên hạ. Giáo hóa bằng chữ Đễ, do đó cung kính các bậc huynh trưởng trong thiên hạ. Giáo hóa bằng chữ Thần, do đó tôn kính các bậc quân vương trong thiên hạ”.

Điều này nghĩa là đạo Hiếu mà người quân tử tuân theo không phải chỉ giới hạn trong những người nhà của mình. Mà trái tim người quân tử ôm trọn thiên hạ, nhân từ bác ái, coi tất cả người trong thiên hạ như cha mẹ và anh chị em của mình. Kiểu hiếu thuận này có thể khiến con người trở nên nhân từ và bác ái hơn, chứ không phải là sự ích kỷ và hẹp hòi. Cho nên chữ Hiếu của người quân tử là đại hiếu.

Chữ Hiếu của bậc thiên tử

Chữ Hiếu của bậc thiên tử, Khổng Tử giảng như sau: “Người yêu thương cha mẹ, sẽ không ác với người khác. Người kính trọng cha mẹ, sẽ không khinh nhờn người khác. Yêu thương kính trọng là ở việc hết lòng phụng sự cha mẹ, mà việc giáo hóa đạo đức được thực thi cho bách tính, làm khuôn mẫu cho bốn biển. Đó là cái hiếu của bậc thiên tử vậy”.

“Trăm nết người ta hiếu đứng đầu

Đạo làm trai gái, đạo làm dâu…”.

Đức Phật dạy: “Hiếu thảođứng đầu muôn hạnh”; “Tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật”. Dù là con trai, con gái hay con dâu thì hiếu thảo vẫn là cái nết tốt đứng đầu, hiếu thảo là đạo trọng. Từ xưa tới nay, hiếu thảo được xem là đạo lý làm người, là một truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam.

Người con phụng dưỡng cha mẹ bằng đời sống chơn chánh (chánh mạng), hành động, việc làm, nghề nghiệp chơn chánh (chánh nghiệp), đời sống tinh cần không phóng dật, nỗ lực làm lành lánh dữ, tu tập các thiện pháp, đoạn trừ các ác pháp thì sau khi mạng chung sẽ được sinh lên cõi trời Tự Quang Thiên, là nơi an lạc, thù thắng, chúng sinh ở cõi đó có dung mạo hết sức xinh đẹp và khả ái, phước báo ở cõi đó loài người không sao sánh kịp.