Bệnh tim là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở Hoa Kỳ. Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC), "cứ 34 giây lại có một người chết ở Hoa Kỳ vì bệnh tim mạch. Khoảng 697.000 người ở Hoa Kỳ đã chết vì bệnh tim vào năm 2020 - cứ 5 trường hợp tử vong thì có 1 người chết vì bệnh tim".
Các số liệu thống kê cho các trường hợp tử vong do đột quỵ cũng đáng báo động không kém. CDC tuyên bố, "vào năm 2020, cứ 6 trường hợp tử vong do bệnh tim mạch thì có 1 trường hợp do đột quỵ. Cứ sau 40 giây có một người ở Hoa Kỳ bị đột quỵ. Cứ sau 3,5 phút, lại có người chết vì đột quỵ".
Việt Nam là một trong những quốc gia có số lượng người tử vong do đột quỵ đứng hàng đầu, vượt trên cả bệnh tim mạch. Chia sẻ về bệnh đột quỵ, bác sĩ Hoàng Tiến Trọng Nghĩa, khoa nội thần kinh của Bệnh viện Quân y 175, cho biết: Hằng năm có khoảng 14 triệu người trên thế giới bị đột quỵ, trong đó 6 triệu người tử vong. Tại nhiều quốc gia, tử vong do đột quỵ đã đứng hàng đầu, vượt trên tim mạch, trong đó có Việt Nam.
Đột quỵ và tim mạch có điểm gì chung?
Tiến sĩ Tomi Mitchell, một bác sĩ Gia đình được Chứng nhận tại Mỹ với Chiến lược Chăm sóc Sức khỏe Toàn diện (Holisticwellnessstrategies) giải thích: Cả đột quỵ và bệnh tim đều có chung một yếu tố nguy cơ là xơ vữa động mạch. Xơ vữa động mạch là sự tích tụ mảng bám trong động mạch, có thể làm giảm lưu lượng máu và gây ra các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng. Trong đột quỵ và bệnh tim, xơ vữa động mạch có thể ngăn chặn lưu lượng máu đến não hoặc tim. Điều này có thể gây ra đột quỵ hoặc đau tim.
Tuy nhiên, có một số khác biệt cơ bản giữa hai bệnh này, đó là: Bệnh tim thường mất nhiều năm để phát triển, trong khi đột quỵ có thể xảy ra đột ngột. Bệnh tim chủ yếu là một tình trạng mãn tính, trong khi đột quỵ thường là cấp tính.
Mặc dù không có cách nào chắc chắn để ngăn ngừa bệnh tim hoặc đột quỵ, nhưng có những yếu tố nguy cơ có thể thay đổi được để phòng tránh. Tiến sĩ Tomi Mitchell đã chia sẻ 5 điều làm tăng đáng kể nguy cơ bị bệnh tim mạch và đột quỵ như sau. Hiểu các yếu tố nguy cơ và thực hiện các bước để loại bỏ chúng có thể giúp giảm nguy cơ đột quỵ.
1. Huyết áp cao là một yếu tố nguy cơ đáng kể đối với đột quỵ và bệnh tim
Theo Tiến sĩ Mitchell, huyết áp cao là một yếu tố nguy cơ đáng kể đối với đột quỵ và bệnh tim. Khi bị huyết áp cao, tim phải làm việc chăm chỉ hơn để bơm máu qua cơ thể. Điều này gây thêm căng thẳng cho tim và theo thời gian, có thể dẫn đến tổn thương.
Ngoài ra, huyết áp cao có thể khiến các động mạch trở nên hẹp và cứng nhắc, khiến cục máu đông có nhiều khả năng hình thành. Nếu một cục máu đông nằm trong não, nó có thể gây ra đột quỵ. Tương tự, một cục máu đông hình thành trong tim có thể dẫn đến một cơn đau tim. Do đó, điều cần làm với bất kì ai là phải kiểm soát huyết áp để giảm nguy cơ mắc các bệnh có thể gây tử vong này.
2. Cholesterol cao cũng là một yếu tố nguy cơ của bệnh tim và đột quỵ
Tiến sĩ Mitchell nói: "Đột quỵ và bệnh tim là những mối quan tâm sức khỏe lớn trên toàn thế giới và có liên quan đến mức cholesterol cao. Trong trường hợp đột quỵ, cholesterol cao có thể dẫn đến sự hình thành mảng bám trong động mạch, sau đó có thể ngăn chặn lưu lượng máu đến não. Điều này có thể gây ra đột quỵ, dẫn đến thiệt hại nghiêm trọng lâu dài hoặc thậm chí tử vong.
Cholesterol cao cũng là một yếu tố nguy cơ của bệnh tim, vì nó có thể dẫn đến sự tích tụ mảng bám trong các động mạch cung cấp máu cho tim. Điều này cuối cùng có thể dẫn đến một cơn đau tim, có thể gây tử vong. Do đó, điều cần thiết là duy trì mức cholesterol lành mạnh để giảm nguy cơ mắc cả đột quỵ và bệnh tim".
3. Nếu hút thuốc, bạn đang tăng nguy cơ bị đột quỵ hoặc đau tim
"Hút thuốc là một yếu tố nguy cơ đáng kể cho cả đột quỵ và bệnh tim", tiến sĩ Mitchell nhấn mạnh. "Khi bạn hút thuốc, các hóa chất trong thuốc lá làm hỏng tim và mạch máu của bạn. Tổn thương này có thể dẫn đến xơ vữa động mạch, một tình trạng trong đó mảng bám tích tụ trên thành động mạch của bạn. Mảng bám thu hẹp các động mạch và làm cho máu khó chảy qua chúng hơn. Một cục máu đông ở một trong các động mạch của bạn có thể ngăn chặn lưu lượng máu đến não và gây ra đột quỵ. Những người hút thuốc cũng có nhiều khả năng bị huyết áp cao, làm tăng nguy cơ đột quỵ.
Ngoài ra, hút thuốc làm hỏng niêm mạc động mạch, khiến chúng có nhiều khả năng bị rách hoặc vỡ. Một động mạch bị rách có thể gây ra cơn đau tim bằng cách ngăn chặn lưu lượng máu đến cơ tim. Vì vậy, nếu bạn hút thuốc, bạn đang tăng nguy cơ bị đột quỵ hoặc đau tim. Cách tốt nhất để giảm nguy cơ của bạn là bỏ hút thuốc".
4. Bệnh tiểu đường là một trong những yếu tố quan trọng nhất gây đột quỵ và bệnh tim
"Có nhiều yếu tố nguy cơ gây đột quỵ và bệnh tim, và bệnh tiểu đường là một trong những yếu tố quan trọng nhất", tiến sĩ Mitchell nói. Bệnh tiểu đường có thể làm hỏng các mạch máu và dây thần kinh, khiến cơ thể khó điều chỉnh lượng đường trong máu. Điều này có thể dẫn đến mảng bám trong động mạch, cuối cùng có thể gây ra cơn đau tim hoặc đột quỵ.
Bên cạnh đó, bệnh tiểu đường có thể gây ra huyết áp cao, một yếu tố nguy cơ đáng kể khác đối với những tình trạng này. Do đó, điều cần thiết là những người mắc bệnh tiểu đường phải theo dõi lượng đường trong máu một cách cẩn thận để kiểm soát tình trạng của mình. Bằng cách thực hiện các bước này, chúng ta có thể giúp giảm nguy cơ đột quỵ và bệnh tim.
5. Béo phì là một yếu tố nguy cơ đáng kể cho cả đột quỵ và bệnh tim
Tiến sĩ Mitchell nói: "Béo phì là chỉ số khối cơ thể (BMI) từ 30 trở lên. Những người béo phì có nguy cơ cao mắc một số vấn đề sức khỏe, bao gồm huyết áp cao, tiểu đường và cholesterol cao. Tất cả những tình trạng này có thể dẫn đến cả đột quỵ và bệnh tim. Ngoài ra, bản thân béo phì có thể làm hỏng tim và mạch máu.
Béo phì làm tăng lượng chất béo trong máu, có thể làm tắc nghẽn các động mạch. Nó cũng làm tăng nguy cơ viêm và khiến tim khó bơm máu hơn. Do đó, béo phì là một đóng góp đáng kể cho cả đột quỵ và bệnh tim. Điều trị béo phì thường bao gồm thay đổi lối sống như chế độ ăn uống, tập thể dục và thuốc men. Những biện pháp can thiệp này có thể giúp giảm nguy cơ đột quỵ và bệnh tim".