Theo thông tin từ Tuổi Trẻ, sau gần 20 năm không xuất hiện ca bệnh, mới đây tỉnh Hà Giang đã ghi nhận hơn 30 ca mắc bạch hầu, đã ghi nhận trường hợp tử vong.
Theo Trung tâm Y tế huyện Mèo Vạc, Hà Giang, ngày 24/8 địa phương ghi nhận một ca tử vong do mắc bệnh bạch hầu là V.M.D. (15 tuổi, dân tộc Mông).
Thời gian gần đây, D. không đi khỏi địa phương, cũng không tiếp xúc với người mắc bệnh, trong gia đình không ai mắc bệnh tương tự. Đây là trường hợp đầu tiên mắc bệnh bạch hầu và tử vong tại tỉnh này trong gần 20 năm qua.
Ngay sau khi ghi nhận ca mắc bệnh bạch hầu, Bệnh viện Đa khoa huyện Mèo Vạc đã tiến hành xét nghiệm các trường hợp nghi ngờ, qua đó điều trị cho hơn 30 bệnh nhân nghi mắc bệnh bạch hầu, thành lập khu điều trị, cách ly tại khoa truyền nhiễm.
Các chuyên gia Viện Vệ sinh dịch tễ trung ương, Bệnh viện Nhi trung ương đã đến hỗ trợ phòng dịch, đặc biệt là điều trị các ca bệnh nặng.
Trước đó, từ ngày 30/4 đến 21/5, tỉnh Điện Biên ghi nhận 2 trường hợp mắc bạch hầu, có 1 ca tử vong tại xã Pu Nhi, huyện Điện Biên Đông. 2 ca mắc trong đợt dịch này yếu tố dịch tễ không rõ ràng.
Theo ông Trần Đắc Phu, nguyên cục trưởng Cục Y tế dự phòng (Bộ Y tế), bệnh bạch hầu là bệnh truyền nhiễm qua đường hô hấp, có thể lây lan nhanh chóng và hiện nay vẫn đang được xếp vào bệnh truyền nhiễm nhóm B.
"Trước đây khi chương trình tiêm chủng mở rộng chưa tiêm vắc xin, tỉ lệ nhiễm bệnh bạch hầu rất cao. Tại các khoa truyền nhiễm, hầu như thời điểm nào cũng có bệnh nhân bạch hầu. Sau khi đưa vào tiêm chủng vắc xin thì tỉ lệ nhiễm bệnh đã giảm thấp.
Tuy nhiên, vài năm trở lại đây, tại Tây Nguyên và gần đây nhất là một số tỉnh miền núi phía Bắc bắt đầu có ghi nhận ca bệnh trở lại. Hầu hết các địa phương này thuộc vùng sâu vùng xa, tỉ lệ tiêm vắc xin phòng bệnh giảm hoặc gián đoạn dẫn đến ca bệnh tăng", ông Phu nhận định.
Theo ông Phu, do bạch hầu lây truyền qua đường hô hấp, giọt bắn, vật dụng hằng ngày nên dễ lây lan, đặc biệt với những người không có miễn dịch với bệnh. Vì vậy, để phòng tránh bệnh cần chú ý khử khuẩn, đeo khẩu trang, vệ sinh sạch sẽ… Quan trọng nhất là phải tiêm chủng vắc xin phòng bệnh đầy đủ theo khuyến cáo của Bộ Y tế.
Về nguồn lây của bệnh bạch hầu, theo ông Phu, bệnh có thể không rõ nguồn lây. "Có người mang mầm bệnh, do đã tiêm chủng nên không tiến triển nặng nhưng vẫn có khả năng lây cho người khác. Vì vậy, có trường hợp nhiễm bệnh nhưng không rõ tiếp xúc từ đâu", ông Phu nêu.
Dẫn tin từ VnExpress, bệnh bạch hầu là bệnh nhiễm khuẩn, nhiễm độc cấp tính do vi khuẩn bạch hầu gây nên, có tỷ lệ tử vong 5-10%.
Cách vi khuẩn lây nhiễm
- Đường lây
+ Lây trực tiếp do hít phải chất tiết từ đường hô hấp của người bệnh thông qua các giọt nước nhỏ li ti phát ra khi ho, hắt hơi, nói chuyện.
+ Vi khuẩn cũng có thể lây nhiễm và tồn tại trên bề mặt của các đồ vật xung quanh người bệnh từ vài ngày đến vài tuần như trong sữa, nước uống sống đến 20 ngày; trong tử thi sống được hai tuần.
+ Hiếm gặp hơn, có thể lây trực tiếp từ các sang thương trên da, là các nang dạng biểu bì, u mỡ, mụn cơm và nốt ruồi.
- Nguồn lây
Người bệnh hoặc người lành mang mầm bệnh.
- Thời kỳ lây
+ Thường là cuối thời kỳ ủ bệnh hoặc ngay khi khởi phát bệnh, có thể kéo dài từ hai đến 4 tuần.
+ Trung bình, sau khi hít phải vi khuẩn 2-5 ngày, người sẽ phát bệnh.
Triệu chứng
- Tùy thuộc vào vị trí vi khuẩn gây bệnh, sẽ có các biểu hiện nặng, nhẹ khác nhau.
- Triệu chứng bệnh chủ yếu là viêm họng, có lớp màng giả màu trắng do các tế bào bị viêm bám vào trong vòm họng.
- Một số biến chứng khác như viêm tai giữa, viêm phổi do liệt cơ hoành...
- Khi bệnh tiến triển nặng lên, có thể xuất hiện các triệu chứng như khó thở, khó nuốt, thay đổi thị lực, nói lắp.
- Các độc tố bạch hầu khi ngấm vào máu sẽ gây tình trạng nhiễm độc toàn thân, làm tê liệt thần kinh sọ não, thần kinh vận động ngoại biên, thần kinh cảm giác, gây viêm cơ tim hoặc loạn nhịp tim, dẫn đến tử vong.
Nguy cơ nhiễm bệnh
- Bất cứ người nào tiếp xúc với mầm bệnh đều có thể bị lây nhiễm, nhất là trẻ nhỏ, người cao tuổi và người có khả năng miễn dịch thấp.
- Người đã tiêm phòng bệnh bạch hầu hoặc đã từng mắc bệnh trong quá khứ vẫn có khả năng nhiễm lại do cơ thể không tạo ra khả năng miễn dịch hoặc khả năng miễn dịch giảm dần theo thời gian.
Phòng ngừa
- Gia đình nên đưa trẻ đi tiêm vaccine đầy đủ.
- Thường xuyên rửa tay bằng xà phòng.
- Che miệng khi ho hoặc hắt hơi, giữ vệ sinh thân thể, mũi, họng hàng ngày.
- Hạn chế tiếp xúc với người mắc bệnh hoặc nghi ngờ mắc bệnh.
- Đảm bảo nhà ở, nhà trẻ, lớp học thông thoáng, sạch sẽ và có đủ ánh sáng.
- Khi có những biểu hiện nghi bạch hầu, cần đến cơ sở y tế để được khám, phát hiện sớm, điều trị kịp thời.
- Người dân trong ổ dịch cần chấp hành nghiêm túc việc uống thuốc phòng và tiêm vaccine phòng bệnh, hạn chế tụ tập đông người theo yêu cầu của cơ quan y tế.