Các bệnh về sức khỏe tâm thần được phát hiện là phổ biến ở những người bị đột quỵ trong những năm trước.

Các chuyên gia nói rằng trầm cảm có thể là một dấu hiệu cảnh báo sớm của bệnh đột quỵ. 

 Đột quỵ, thường xảy ra ở độ tuổi trên 55, cướp đi sinh mạng của 38.000 người mỗi năm.

Nó khiến nhiều người trong số 62.000 người sống sót gặp một loạt vấn đề, từ khó đọc, khó nuốt và nói chuyện.

Trầm cảm, cũng như lo lắng, là một trong những vấn đề phổ biến đối với những người đã bị đột quỵ.

Trầm cảm ảnh hưởng đến khoảng 5% dân số Anh, được chẩn đoán với những người ở mọi lứa tuổi và bối cảnh.

Nhưng nghiên cứu này cho thấy nó không chỉ phổ biến tương đương với sau đột quỵ.

Tác giả nghiên cứu Maria Blochl, Đại học Munster ở Đức, cho biết: “Trầm cảm là một trong những vấn đề cấp bách nhất ở những người đã từng bị đột quỵ và phổ biến đến mức nó được gọi là trầm cảm sau đột quỵ.

“Nhưng nghiên cứu của chúng tôi cho thấy các triệu chứng trầm cảm không chỉ tăng lên rõ rệt sau đột quỵ mà còn cho thấy nhiều triệu chứng trầm cảm đã xuất hiện trước khi đột quỵ xảy ra”.

Các nhà nghiên cứu đã quan sát 10.797 người trưởng thành với độ tuổi trung bình là 65 chưa bị đột quỵ.

Họ đã được theo dõi trong 12 năm, và trong thời gian đó, 425 người bị đột quỵ, cũng có các yếu tố nguy cơ huyết áp cao, cholesterol cao và tiểu đường.

Cứ hai năm một lần, nhà nghiên cứu hỏi liệu họ có gặp phải các triệu chứng trầm cảm trong tuần qua hay không.

Các triệu chứng bao gồm cảm giác chán nản, cảm thấy cô đơn, cảm thấy buồn, cảm giác gắng sức và giấc ngủ không yên.

Họ càng có nhiều triệu chứng, kết quả của họ bị trầm cảm càng cao.

Nghiên cứu cho thấy những người từng bị đột quỵ có triệu chứng trầm cảm tương tự như những người không bị đột quỵ, sáu năm trước đó.

Tuy nhiên, khoảng hai năm trước khi bị đột quỵ, triệu chứng của những người bị đột quỵ bắt đầu tăng lên.

Sau đột quỵ, các triệu chứng trầm cảm gia tăng và ở mức cao trong một thập kỷ.

Ngược lại, triệu chứng của những người không bị đột quỵ vẫn gần như giống nhau trong suốt cuộc nghiên cứu.

Vào thời điểm xảy ra đột quỵ, 34% số người đạt mức có khả năng bị trầm cảm, so với 24% những người không bị đột quỵ.

Nghiên cứu được đối chứng, có nghĩa là những người bị đột quỵ và không bị đột quỵ được so sánh dựa trên thực tế là họ có các đặc điểm giống nhau để tránh nhầm lẫn về các yếu tố nguy cơ tiềm ẩn.

Bà Blochl nói: “Điều này cho thấy rằng các triệu chứng trầm cảm ngày càng tăng trước khi đột quỵ chủ yếu là những thay đổi khó phát hiện được trên lâm sàng.

“Nhưng ngay cả khi các triệu chứng trầm cảm tăng nhẹ, đặc biệt là tâm trạng và các triệu chứng liên quan đến mệt mỏi, cũng có thể là tín hiệu cho thấy một cơn đột quỵ sắp xảy ra”.

Bà nói thêm: “Liệu những thay đổi trước đột quỵ này có thể được áp dụng để dự đoán ai sẽ bị đột quỵ hay không vẫn chưa rõ.

“Tại sao các triệu chứng trầm cảm xảy ra trước đột quỵ vẫn cần phải được nghiên cứu trong tương lai.

“Ngoài ra, nghiên cứu cũng nhấn mạnh lý do tại sao các bác sĩ cần theo dõi các triệu chứng trầm cảm lâu dài ở những người đã bị đột quỵ.”

Các phát hiện được công bố trên tạp chí Thần kinh học.