Sau gần 4 năm đại dịch COVID-19 hoành hành ở hầu hết các quốc gia, vùng lãnh thổ, ngày 5/5/2023 Tổ chức Y tế thế giới tuyên bố chấm dứt tình trạng khẩn cấp về y tế toàn cầu. Tại Việt Nam, dịch COVID-19 cơ bản đã được kiểm soát, cho phép chúng ta chuyển từ chế độ khẩn cấp sang quản lý COVID-19 như hầu hết các bệnh truyền nhiễm nhóm B khác.

Người bệnh COVID-19 có thể phát tán virus từ 2 ngày trước khi có triệu chứng đầu tiên và phát tán mạnh nhất trong 3 ngày đầu từ khi biểu hiện các triệu chứng. Thời gian phát tán virus gây lây nhiễm khoảng 8 ngày kể từ khi xuất hiện triệu chứng, nhưng có thể dài hơn ở những người bệnh có suy giảm miễn dịch. Tuy vậy, những người bệnh không triệu chứng vẫn có thể phát tán virus gây lây nhiễm.

Người mắc bệnh COVID-19 mức độ nhẹ hoặc không triệu chứng có thể điều trị tại nhà.

Các biện pháp phòng bệnh được khuyến khích hiện nay là 2k (Khẩu trang- khử khuẩn), đồng thời chủ động nâng cao sức khỏe, tiêm phòng vaccine, phát hiện sớm để cách ly ca bệnh và bảo đảm công tác kiểm soát nhiễm khuẩn.

Tại Hướng dẫn phòng chống COVID-19 khi chuyển sang bệnh truyền nhiễm nhóm B, Bộ Y tế ban hành Công văn 6923/BYT-DP thực hiện hoạt động phòng, chống dịch bệnh COVID-19 thuộc nhóm B. Trong đó, về Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị COVID-19 ban hành kèm theo Quyết định 2671/QĐ-BYT ngày 26/6/2023 của Bộ trưởng Bộ Y tế. Theo đó:

Cách phân loại người nhiễm bệnh COVID-19 không triệu chứng:

Người bệnh không có triệu chứng lâm sàng; Nhịp thở < 22 lần/phút, SpO2 > 96% khi thở khí trời.

Với người bệnh không có triệu chứng hoặc triệu chứng nhẹ có thể điều trị ngoại trú tại nhà. 

Người bệnh COVID-19 điều trị tại nhà cần được theo dõi sức khỏe thường xuyên.

Một số dấu hiệu cảnh báo người bệnh phải chuyển nơi điều trị nếu:

- SpO2 có lúc giảm < 96% sau đó hồi phục.

- SpO2 < 96% và khó thở khi vận động.

- Người bệnh sốt cao liên tục không giảm với thuốc hạ sốt paracetamol.

- Người bệnh có yếu tố nguy cơ bệnh diễn tiến nặng.

Những yếu tố nguy cơ bệnh diễn tiến nặng người mắc bệnh COVID-19 cần biết:

  • Tuổi > 60.
  •  Béo phì (BMI > 30).
  • Bệnh nền (đái tháo đường, tăng huyết áp, bệnh tim mạch, bệnh phổi mạn, tai biến mạch não, suy giảm trí nhớ, bệnh thận mạn, suy giảm miễn dịch, ung thư)
  • Phụ nữ đang mang thai hoặc có thai gần đây: > 35 tuổi, béo phì, có bệnh mạn tính hoặc rối loạn liên quan thai kỳ (đái tháo đường thai kỳ, tiền sản giật/sản giật).
  • HIV.
  • Hút thuốc lá.
  • Không tiêm vaccine COVID-19.

Người mắc COVID-19 điều trị ngoại trú cần thực hiện các biện pháp sau để phòng lây bệnh COVID-19 cho người khác:

- Người mắc COVID-19 phải đeo khẩu trang. Khuyến khích tự cách ly tại nơi lưu trú ít nhất 5 ngày kể từ khi xuất hiện triệu chứng đầu tiên hoặc từ khi có kết quả xét nghiệm SARS-CoV-2 dương tính và nên đeo khẩu trang hết ngày thứ 10 để tránh lây nhiễm cho người khác. Nếu cần rời khỏi nơi lưu trú cần tuân thủ đeo khẩu trang, thường xuyên khử khuẩn tay, hạn chế tiếp xúc với người khác.

- Người chăm sóc hoặc người ở cùng nhà với người bệnh phải đeo khẩu trang khi tiếp xúc với người bệnh; hạn chế tiếp xúc với người bệnh.

- Thường xuyên rửa tay bằng nước sạch và xà phòng hoặc dung dịch sát khuẩn tay; vệ sinh khử khuẩn các vật dụng và bề mặt tiếp xúc như mặt bàn, tay nắm cửa, các thiết bị cầm tay, bồn cầu, bồn rửa… hàng ngày và khi dây bẩn.

- Giữ thông thoáng, vệ sinh nơi lưu trú.

Ngày 19/10/2023, Bộ Y tế ban hành Quyết định 3896/QĐ-BYT về điều chỉnh bệnh viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của virus corona gây ra (COVID-19) từ bệnh truyền nhiễm thuộc nhóm A sang bệnh truyền nhiễm thuộc nhóm B của Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm năm 2007.

Việc chuyển COVID-19 sang nhóm B có nghĩa là bệnh này không còn là bệnh truyền nhiễm đặc biệt nguy hiểm, có khả năng lây lan nhanh, rộng và gây tử vong cao. Theo đó, các hoạt động phòng, chống COVID-19 được thực hiện theo quy định của Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm đối với bệnh truyền nhiễm thuộc nhóm B.